Nhà thờ họ Lê - Thanh Nông Ưu Kế

Nhà thờ Họ được xây dựng tại Quảng Thành, huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

Nhà thờ Họ Lê - Thanh Hương

Đây là nhà Thờ Họ Lê - Thanh Hương được xây dựng tại Làng Thanh Hương - Huyện Phong Điền, Tỉnh Thừa Thiên - Huế.

Họ Lê - Kế Môn

Đây là nhờ thờ Họ Lê làng Kế Môn, được xây dựng tại Làng Kế Môn huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế.

Lá cờ của Họ

Được treo tại Quảng Thành, Bà Rịa - Vũng Tàu.

Nhà thờ Họ Lê - Phú Nông

Đây là nhà thờ họ Lê của Làng Phú Nông - được xây dựng tại Làng Phú Nông huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế .

Chào mừng Quý vị đã đến với trang web của họ Lê chúng tôi !.

Lorem ipsum eu usu assum liberavisse, ut munere praesent complectitur mea. Sit an option maiorum principes. Ne per probo magna idque, est veniam exerci appareat no. Sit at amet propriae intellegebat, natum iusto forensibus duo ut. Pro hinc aperiri fabulas ut, probo tractatos euripidis an vis, ignota oblique.

Ad ius munere soluta deterruisset, quot veri id vim, te vel bonorum ornatus persequeris. Maecenas ornare tortor. Donec sed tellus eget sapien fringilla nonummy. Mauris a ante. Suspendisse quam sem, consequat at, commodo vitae, feugiat in, nunc. Morbi imperdiet augue quis tellus.

4/23/11

Bài bào chữa hay nhất thế kỷ 20 cho "bị cáo" béc-giê cắn chết người trong rẫy


Georges Graham Vest (1830-1904)




Diễn văn của luật sư Georges Graham Vest tại một phiên tòa xử vụ kiện người hàng xóm làm chết Con Chó của thân chủ, được phóng viên William Saller của The New York Times bình chọn là hay nhất trong tất cả các bài diễn văn, lời tựa trên thế giới trong khoảng 100 năm qua.


Old Jonhson County Courthouse - nơi diễn ra phiên tòa

 "Thưa quý ngài hội thẩm 


Người bạn tốt nhất mà con người có được trên thế giới này có thể một ngày nào đó hoá ra kẻ thù quay lại chống lại ta. Con cái mà ta nuôi dưỡng với tình yêu thương hết mực rồi có thể là một lũ vô ơn.


Những người gần gũi thân thiết ta nhất, những người ta gửi gắm hạnh phúc và danh dự có thể trở thành kẻ phản bội, phụ bạc lòng tin cậy và sự trung thành. Tiền bạc mà con người có được, rồi sẽ mất đi. Nó mất đi đúng vào lúc ta cần đến nó nhất. Tiếng tăm của con người cũng có thể tiêu tan trong phút chốc bởi một hành động một giờ. Những kẻ phủ phục tôn vinh ta khi ta thành đạt có thể sẽ là những kẻ đầu tiên ném đá vào ta khi ta sa cơ lỡ vận.

Duy có một người bạn hoàn toàn không vụ lợi mà con người có được trong thế giới ích kỷ này, người bạn không bao giờ bỏ ta đi, không bao giờ tỏ ra vô ơn hay tráo trở, đó là Con Chó của ta. 
Con Chó của ta luôn ở bên cạnh ta trong phú quý cũng như trong lúc bần hàn, khi khoẻ mạnh cũng như lúc ốm đau. Nó ngủ yên trên nền đất lạnh, dù đông cắt da cắt thịt hay bão tuyết lấp vùi, miễn sao được cận kề bên chủ là được. Nó hôn bàn tay ta dù khi ta không còn thức ăn gì cho nó. Nó liếm vết thương của ta và những trầy xước mà ta hứng chịu khi ta va chạm với cuộc đời tàn bạo này.
Nó canh giấc ngủ của ta như thể ta là một ông hoàng dù ta có là một gã ăn mày. Dù khi ta đã tán gia bại sản, thân bại danh liệt thì vẫn còn  là một Con Chó trung thành với tình yêu nó dành cho ta như thái dương trên bầu trời.
Nếu chẳng may số phận đá ta ra rìa xã hội, không bạn bè, vô gia cư thì con chó trung thành chỉ xin ta một ân huệ là cho nó được đồng hành, cho nó làm kẻ bảo vệ ta trước hiểm nguy, giúp ta chống lại kẻ thù. Và một khi trò đời hạ màn, thần chết rước linh hồn ta đi để lại thân xác ta trong lòng đất lạnh, thì khi ấy khi tất cả thân bằng quyến thuộc đã phủi tay sau nắm đất cuối cùng và quay đi để sống tiếp cuộc đời của họ. Thì khi ấy còn bên nấm mồ ta con chó cao thượng của ta nằm gục mõm giữa hai chân trước, đôi mắt ướt buồn vẫn mở ra cảnh giác, trung thành và chân thực ngay cả khi ta đã mất rồi "
./.
.. Ngẫm lại thật đau lòng... con người chúng ta một trong ai đó lại đi hơn thua, đi thù một  con chó  !!!
Statue in font of Jonhson County Courthouse in Warrensburg



Bản gốc:


"Eulogy on the Dog"
Tribute to a Dog 


Gentlemen of the jury!


The best friend a man has in this world may turn against him and become his enemy. His son or daughter that he has reared with loving care may prove ungrateful. Those who are nearest and dearest to us, those whom we trust with our happiness and our good name, may become traitors to their faith.
The money that a man has, he may lose. It flies away from him, perhaps when he needs it the most. A man’s reputation may be sacrificed in a moment of ill-considered action. The people who are prone to fall on their knees to do us honor when success is with us may be the first to throw the stone of malice when failure settles its cloud upon our heads. The one absolutely unselfish friend that a man can have in this selfish world, the one that never deserts him and the one that never proves ungrateful or treacherous is his dog. 


(Bản gốc: Gentleman of the jury: A man’s dog stands by him in prosperity and in poverty, in health and in sickness. He will sleep on the cold ground, where the wintry winds blow and the snow drives fiercely, if only he may be near his master’s side. He will kiss the hand that has no food to offer, he will lick the wounds and sores that come in encounters with the roughness of the world. He guards the sleep of his pauper master as if he were a prince. When all other friends desert, he remains.


When riches take wings and reputation falls to pieces, he is as constant in his love as the sun in its journey through the heavens.If fortune drives the master forth an outcast in the world, friendless and homeless, the faithful dog asks no higher privilege than that of accompanying him to guard against danger, to fight against his enemies, and when the last scene of all comes, and death takes the master in its embrace and his body is laid away in the cold ground, no matter if all other friends pursue their way, there by his graveside will the noble dog be found, his head between his paws, his eyes sad but open in alert watchfulness, faithful and true even to death.)


Georges Graham Vest
March 4, 1879 - March 3, 1903  

  

4/21/11

Thơ: Bài thơ Đôi dép

Bài thơ Đôi dép
 (Nguyễn Trung Kiên) 
Bài thơ đầu anh viết tặng em
Là bài thơ anh kể về đôi dép
Khi nổi nhớ ở trong lòng da diết
Những vật tầm thường cũng viết thành thơ


Hai chiếc dép kia gặp nhau tự bao giờ
Có yêu nhau đâu mà chẳng rời nữa bước
Cùng gánh vác những nẻo đường xuôi ngược
Lên thảm nhung xuống cát bụi cùng nhau


Cùng bước, cùng mòn, không kẻ thấp người cao
Cùng chia xẻ sức người đời chà đạp
Dẫu vinh nhục không đi cùng người khác
Số phận chiếc này phụ thuộc chiếc kia


Nếu ngày nào một chiếc dép mất đi
Mọi thay thế đều trở nên khập khiểng
Giống nhau lắm nhưng người đời sẽ biết
Hai chiếc này chẳng phải một đôi đâu


Cũng như mình trong những lúc vắng nhau
Bước hụt hẫng cứ nghiêng về một phía
Dẫu bên cạnh đã có người thay thế
Mà trong lòng nỗi nhớ cứ chênh vênh


Đôi dép vô tri khắng khít song hành
Chẳng thề nguyền mà không hề giả dối
Chẳng hứa hẹn mà không hề phản bội
Lối đi nào cũng có mặt cả đôi


Không thể thiếu nhau trên bước đường đời
Dẫu mỗi chiếc ở một bên phải trái
Nhưng tôi yêu em bởi những điều ngược lại
Gắn bó đời nhau bằng một lối đi chung


Hai mảnh đời thầm lặng bước song song
Sẽ dừng lại khi chỉ còn một chiếc
Chỉ còn một là không còn gì hết
Nếu không tìm được chiếc thứ hai kia.

Cách người Kế Môn trau dồi tri thức

Làng Kế Môn (xã Điền Môn, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên- Huế) có một thư viện làng được một người con của làng xây dựng với gần 5.000 đầu sách đủ các lĩnh vực, phục vụ nhu cầu tìm hiểu kiến thức của hàng nghìn người dân ở “vùng sâu” Phong Điền.

Về làng Kế Môn, trên con đường thênh thang chạy sát bờ xôi ruộng mật, những ghế đá, hàng cây rợp bóng mát được những người con của làng - là doanh nhân thành đạt khắp mọi miền đất nước tài trợ xây dựng. Thư viện làng Kế Môn tọa lạc trên diện tích chừng hơn 400m2 trong khuôn viên một ngôi nhà rường đã hơn 100 tuổi. Hơn 10 năm trước, ông Hồ Huy, một người thợ kim hoàn, hiện đang sống và làm việc tại thành phố Hồ Chí Minh đã tặng khu đất và ngôi nhà rường rồi tự tay mua sắm sách báo làm thư viện miễn phí cho bà con nơi đây.

Với gần 5.000 đầu sách trên tất cả mọi lĩnh vực là nguồn tư liệu phong phú cho người dân ở đây học tập, nghiên cứu mở mang kiến thức. Đặc biệt, nơi đây còn có sách về nông nghiệp giúp bà con nông dân tìm hiểu mở mang kiến thức, học hỏi cách làm hay từ sách, báo mang áp dụng vào sản xuất. Vào thư viện làng Kế Môn một hình ảnh dễ bắt gặp là những người nông dân một đời chân lấm tay bùn, quần ống săn ống thả tranh thủ giờ chiều rỗi việc đồng áng lại say sưa bên chồng sách xấp báo.

Ông Hồ Tả Khanh, Trưởng thôn Kế Môn, góp ý: "Để phát triển vùng nông thôn Việt Nam, theo tôi việc thành lập và duy trì những thư viện làng như Kế Môn thật bổ ích. Bằng chứng là sau hơn 10 năm thành lập, đời sống tinh thần của bà con nơi đây được nâng cao hẳn, góp phần xây dựng làng văn hoá, đào tạo lớp trẻ là chủ nhân tương lai của làng".
 Anh Hồ Tả Khiêm, một nông dân ở đây, chia sẻ: “Tui thấy sách ở thư viện làng ni rất phong phú. Nước miềng đa số bộ phận người dân ở nông thôn, có được thư viện làng như ri thật bổ ích cho những nông dân như chúng tôi. Ở làng quê làm chi mà tiếp cận được với sách báo, nhưng ở Kế Môn, ra ngõ, vào thư viện làng là có sách, báo đọc ngay". Trong không gian ấm cúng của ngôi nhà rường, 4 tủ sách, 2 giá đựng được xếp đặt ngay ngắn. Trong các tủ, sách được phân ra từng lĩnh vực như: sách y học, lịch sử, nông dược, văn chương, giới tính…ngoài nguồn tư liệu về sách khá dồi dào, thư viện làng còn có cả truyện tranh, báo chí các loại luôn được cập nhật từng ngày.

Thư viện làng còn có gian phòng riêng trưng bày về nông cụ như cối xay, oi đựng cá…, mô tả những công việc đồng áng của người nông dân một nắng hai sương trên đồng ruộng. Chị Đặng Thị Thảo, người quản lý thư viện, cho hay: “Mỗi ngày thư viện đón hàng trăm đọc giả không chỉ là người dân trong xã mà con các xã lân cận đến tìm tư liệu, nghiên cứu sách báo". Đặc biệt ở thư viện làng còn có một “bảo tàng” về nông cụ là điểm tham quan thú vị cho nhiều du khách. Những nông cụ gợi lên hình ảnh người nông dân lam lũ, nó phù hợp với đa số người dân ở tỉnh nhà đều gắn với ruộng đồng.

DUY PHIÊN

4/19/11

Nguyễn Khoa Điềm từ “Đất ngoại ô” đến “Cõi lặng”

Trong nghiệp làm thơ, có người viết mãi mà vẫn không có phong cách, có người mò mẫm mãi mới tìm được phong cách, nhưng cũng có người vừa mới cầm bút đã phần nào thể hiện phong cách của mình. Nguyễn Khoa Điềm đến với thơ hơi muộn nhưng đã sớm định hình một giọng điệu riêng.

Qua các tập thơ Đất ngoại ô (1972), Mặt đường khát vọng (Trường ca, 1974), Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986), Thơ Nguyễn Khoa Điềm (1990), Cõi lặng (2007), ta bắt gặp những suy tư của anh đối với nhân dân, đất nước; những chiêm nghiệm của anh về đời sống xã hội, nhân tình thế thái... Những chiêm nghiệm và suy tư đó được thể hiện bằng một giọng thơ trầm tĩnh, bình dị, sâu lắng và khá hiện đại.

Nguyễn Khoa Điềm xuất thân trong một gia đình trí thức cách mạng. Anh là cháu nữ sĩ Đạm Phương, con trai nhà văn Hải Triều (Nguyễn Khoa Văn). Nguyễn Khoa Điềm cất tiếng khóc chào đời ở thôn Ưu Điềm (Phong Hòa, Phong Điền, Thừa Thiên – Huế) vào ngày 15 tháng 4 năm 1943. Cái tên Ưu Điềm không ngờ lại ứng với bản tính của anh: Anh là một người hay ưu tư, suy nghĩ, điềm đạm và trầm lặng. Lên mười một tuổi, anh đã mồ côi bố. Thời thơ ấu anh lại sống trong ''khu phố buồn đau''. Hàng ngày chứng kiến cái cảnh: Những người dân nghèo ''như vỏ hến chiều chiều tấp lên các bến...'', với những đôi chân đất đội áo nối vai / le te chợ Hôm, chợ Mai / đầu tắt mặt tối. Hình ảnh người mẹ ngồi bán hàng ''nước mắt thương chống lạnh như hạt mưa đọng qua cửa thùng gương” cứ ám ảnh anh. Năm mười hai tuổi, anh lại phải sống xa mẹ (khi anh được một người bà con đưa ra miền Bắc). Có phải vì thế mà anh hay suy tư về cuộc sống của những người dân lao động nghèo khổ? Tốt nghiệp Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1964, cùng một lứa với Phạm Tiến Duật, Lê Anh Xuân (Ca Lê Hiến), Nguyễn Khoa Điềm được trở về quê hương, hoạt động ở chiến trường Thừa Thiên - Huế. Trong một trận càn, anh bị địch bắt giam tại nhà lao Thừa Phủ suốt mấy tháng trời. Mãi đến chiến dịch Mậu Thân (1968), anh mới được giải thoát, tiếp tục trở lại hoạt động. Chính thời điểm này, Nguyễn Khoa Điềm bắt đầu làm thơ. Trong buổi giao lưu với công chúng yêu thơ ở Huế, anh nói một cách thành thật là anh hoàn toàn không có năng khiếu về thơ. Anh làm được thơ là nhờ học hỏi, tìm tòi khổ luyện. Đặc biệt là được sống trong không khí cách mạng sôi sục của đồng bào miền Nam và tinh thần chiến đấu chống Mỹ của nhân dân cả nước. Đào tạo ở miền Bắc, lại sớm tiếp xúc một cách có chọn lọc văn học đô thị miền Nam, thông qua các bạn văn: Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Trần Vàng Sao... điều đó góp phần hình thành phong cách của anh ngay trong những sáng tác đầu tay. Anh đánh vật với bài thơ Đất ngoại ô suốt một năm trời (từ tháng 4-1968 đến tháng 4-1969). Giọng thơ của Nguyễn Khoa Điềm ở Đất ngoại ô khá mới mẻ. Các câu thơ được kéo dài một cách tự do phóng khoáng, không quá câu nệ vào vần điệu. Lời thơ tự nhiên, gần với lời ăn tiếng nói hàng ngày. Những câu thơ, những đoạn thơ trong Đất ngoại ô chứa đầy suy tư. Từ quá khứ, anh đối chiếu với hiện tại: Vườn thơ xưa không có gã áo trắng đi về / Ngơ ngẩn đọc thơ buồn trong tiếng guốc cạo râu / Chỉ còn người phu xe cũ / Nghiêng cốc rượu chiều nhòe những mái tôn... Nhà thơ nhìn thấy trong cái nắng tháng năm "run rẩy những oan hồn". Và tự hỏi: "Ôi mùa phượng hay lòng tôi cháy đỏ?". Ngọn lửa căm thù của đồng bào miền Nam đã biến thành giông bão: Sức trăm năm rung chuyển xuống lòng đường / Cả ngoại ô làm chiến lũy sông Hương... Trước đây, anh từng lấy bút danh Mặc Hữu, Hướng Dương ký dưới những bài báo, nhưng lần này anh dùng tên thật của mình khi quyết định gửi Đất ngoại ô ra Hà Nội. Bài thơ được đăng trang trọng trên báo Văn nghệ. Bạn đọc yêu thơ bắt đầu biết đến cái tên Nguyễn Khoa Điềm từ đó. Đất ngoại ô chiếm một vị trí đặc biệt trong sự nghiệp thi ca của anh. Nó mở cho anh một hướng đi riêng, một cách nói năng, một giọng điệu riêng trong dòng thơ chống Mỹ. Bây giờ đọc lại tập thơ Đất ngoại ô của anh (do NXB Giải phóng ấn hành 1972), ta gặp không ít những câu thơ, những đoạn thơ hay. Chẳng hạn như ba đoạn thơ sau đây: Những đồng tiền ngoại ô / đốm mồ hôi, dầu mỡ / mùi nước mắm, cá khô / Cái nhàu trong tay em nhỏ / Cái tròn vo trong cạp quần cụ già / Những đồng tiền trở trăn trăm kiểu / Ngượng ngùng mới đến được đây / Những đồng tiền ngoại ô / Rít chằng khó đếm... (Những đồng tiền ngoại ô); Lớp học nào Người đã đến ngồi đây / Những mùa thu âm thầm lá đổ / như vùi sâu cả bầu trời xứ sở / Xuống lòng sông nức nở khúc Nam ai (Nơi Bác từng qua); Đất nước. Tình yêu. Mơ ước. Mai sau / Tên mấy đứa đêm nay không sưởi lửa / Tên dãy phố ta mơ về gõ cửa / Sâu chập chùng giữa than củi lung linh... (Bếp lửa rừng). Cái hay ở những câu thơ, đoạn thơ trên chính là những suy tư của tác giả về cuộc sống lam lũ của người dân lao động (Những đồng tiền ngoại ô); về tình cảnh đau thương của đất nước (Nơi Bác từng qua); về tình bạn bè, đồng đội (Bếp lửa rừng). Bài Con gà đất, cây kèn và khẩu súng là một bài thơ có sự liên tưởng hết sức độc đáo. Người lính Giải phóng quân đã đi từ: Con gà đất / Cây kèn / Và Khẩu súng / Để nhận lấy tình yêu của thuở ban đầu. Nhưng thành công nhất trong Đất ngoại ô chính là bài Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ. Hình ảnh "Lưng núi thì to mà lưng mẹ thì nhỏ" và ''Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi / Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng" là những hình ảnh hết sức bình dị mà vô cùng sâu sắc. Nhà thơ chia sẻ với nỗi vất vả của những người mẹ miền núi A Lưới và tình thương, ước mơ của mẹ dành cho Cu Tai. Cả bài thơ toát lên tinh thần yêu nước của những người dân lao động trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Báo Văn nghệ giới thiệu bài thơ này ở ngay trang nhất - một trường hợp hy hữu đối với những cây bút trẻ từ trước đến nay. Khúc hát ru đã được Trần Hoàn phổ nhạc, trở thành bài hát nổi tiếng một thời. Tất nhiên, không phải bài thơ nào của anh viết trong giai đoạn dầu sôi lửa bỏng này cũng thành công. Một số bài thơ trong Đất ngoại ô, theo tôi là còn quá dàn trải, thiếu sự cô đọng cần thiết. Bước sang trường ca Mặt đường khát vọng, Nguyễn Khoa Điềm vẫn tiếp tục mạch suy tư về nhân dân, đất nước bằng lối thể hiện tự nhiên, bình dị, phóng khoáng, hiện đại vốn có của mình. Không ai nói về đất nước dễ hiểu như anh: Đất là nơi anh đến trường / Nước là nơi em tắm. Anh giải thích đất nước đến tận cội nguồn: Đất là nơi chim về / Nước là nơi Rồng ở. Sự hình thành Đất Nước cũng được anh trình bày bằng những sự vật, hiện tượng hết sức gần gũi, thân thiết: Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn / Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc / Tóc mẹ thì bới sau đầu / Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay, muối mặn / Cái kèo, cái cột thành tên / Hạt gạo phải một nắng hay sương xay, giã, giần, sàng / Đất Nước có từ ngày đó... Chính nhân dân: sống và chiến đấu / Giản dị và bình tâm / Không ai nhớ mặt, đặt tên / Nhưng họ đã làm ra Đất Nước... Bản trường ca này anh viết trong những tháng ngày địch bắn phá vùng chiến khu Trị Thiên vô cùng ác liệt. Nhà văn Nguyễn Đắc Xuân kể rằng bản thảo đầu tiên của trường ca này bị bom thả bay tung hết. Nguyễn Khoa Điềm tiếc đứt ruột. Anh phải ngồi viết lại từng chương một, hoàn thành vào năm 1971 và mãi đến 1974 mới ra mắt bạn đọc. Thanh niên trí thức yêu nước ở các đô thị miền Nam lúc bấy giờ rất tâm đắc với bản trường ca này vì họ tìm được ở đó những tâm tư sâu kín của mình.

Sau ngày nước nhà thống nhất, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm lần lượt được giao nhiều trọng trách: Thứ trưởng rồi Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin; Tổng Thư ký BCH Hội Nhà văn khóa V; Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương... nên ít có thời gian làm thơ. Tuy vậy, vào năm 1986, anh vẫn cho ra đời tập Ngôi nhà có ngọn lửa ấm. Chỉ một thời gian ngắn sau khi nghỉ hưu, anh đã hoàn thành tập thơ Cõi lặng (NXB Văn học - 2007) gây xôn xao dư luận. Trong Ngôi nhà có ngọn lửa ấm và Cõi lặng, Nguyễn Khoa Điềm nghiêng về chiêm nghiệm đời sống xã hội, nhân tình thế thái. Bên cạnh những cái hay, cái đẹp anh còn nhận thấy những cái chưa hay, chưa đẹp trong cuộc sống hiện tại. Anh nói với đứa con trai - khi cháu mới cất tiếng khóc chào đời: Cái thế kỷ của cha còn lắm điều xấu hổ (Ngôi nhà có ngọn lửa ấm - 1984). Đi trên cánh đồng buổi chiều thấy sự vất vả của người nông dân, anh nghiệm ra rằng: Khi mồ côi trở nên quá rẻ / Kẻ ranh ma trở nên quá giàu (Cánh đồng buổi chiều). Nghe tin hai nhà khoa học bị tai nạn xe máy, anh đề cập đến sự hung bạo: Hung bạo trên mạng, trên sàn diễn, trong lớp học / Hung bạo giữ bàn nhậu, cửa sau công sở, hung bạo đường phố / Hung bạo văn chương, tố giác nặc danh / Lạng lách thời thượng và sành điệu. Đến tuổi 63, anh thú nhận: Bánh xe đạp không tròn nữa / Chỉ một hòn đá vô tình cũng đủ ngã lăn chiêng và Các cô gái đều lẫn vào mây trắng / Như là thần tiên, như cánh diều vàng… Ngắm những quả bầu, quả bí anh liên tưởng đến giọt mồ hôi của mẹ và hoảng sợ ngày bàn tay mẹ mỏi / Mình vẫn còn một thứ quả non xanh? (Mẹ và quả)... Để có được những giây phút bình thản, thoải mái, thanh tịnh, nhà thơ tìm cách hòa mình và thiên nhiên: Nhưng chiều nay có còn bò gặm cỏ / Bên dòng sông như chưa biết chiều tan / Tôi với nó lặng tim bè bạn / Mắt nó nhìn dìu dịu nước Hương Giang (Chiều Hương Giang). Anh thèm cái ung dung của nó: chậm rãi / không nghe tiếng người, tiếng xe cộ lại qua / Bụi bặm một ngày kiếm sống / Nó nghe vị ngọt của từng cọng cỏ (Cỏ ngọt). Anh ngạc nhiên trước sức chịu đựng và sự lạc quan của Cây vú sữa trước sân nhà: Đêm qua mưa bão đen vườn cũ / Sáng dậy trên cao lá nói cười. Anh khâm phục dòng sông Hương “Không có nỗi đau đớn nào sông không rửa sạch...”. Anh phát hiện đức tính thầm lặng của một loại hoa nở giữa đêm / Một đời mơ mộng chẳng nguôi quên / Những khi ta ngủ thì hoa thức / Hoa nhắn giùm ta bí ẩn em (Trong đêm). Làm bạn và học hỏi thiên nhiên, anh đúc rút thành những châm ngôn: Đôi khi đá dạy ta mềm mỏng / Sự tàn nhẫn nhắc ta điều lành / Nỗi buồn đánh thức hi vọng / Và: Giữa thế giới không nhiều may mắn / Ta học cách vừa lòng với mình / Chia sẻ sự bình tâm của cỏ (Hy vọng): Đặc biệt là cỏ - cỏ đã tiếp cho anh sức sống và niềm tin: Cỏ yên tĩnh, cỏ xanh đến cuối đời / Trước và sau ngày làm việc / Cỏ làm lời nhắc nhở / Xanh (Cỏ trước Ba Đình)... Những chiêm nghiệm này không chỉ cần thiết cho bản thân tác giả mà còn là những bài học hết sức quý giá cho tất cả mọi người.

Hình thành được một phong cách thơ riêng và được mọi người thừa nhận không phải là chuyện dễ dàng. Người làm thơ thì nhiều nhưng chỉ một ít trong số họ trở thành tác giả, có chỗ đứng vững vàng trên văn đàn. Ngoài tài năng, người cầm bút còn phải có tấm lòng. Nói như Nguyễn Du ''Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”! Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm cho rằng nếu thiếu đi tấm lòng nhân hậu, cao thượng thì không thể có thơ hay được. Sự sống chín đầy trong tâm hồn người làm thơ là cơ sở của sự thăng hoa, sáng tạo. Thơ phải góp phần làm đẹp tâm hồn. Sau hơn bốn mươi năm vừa đảm nhiệm những chức vụ quan trọng vừa cầm bút, anh đã đóng góp cho nền thơ ca nước nhà một số thành tựu đáng kể. Những tác phẩm: Đất ngoại ô, Mặt đường khát vọng và Ngôi thà có ngọn lửa ấm của anh đã nhận được Giải thưởng Nhà nước về Văn học - Nghệ thuật. Bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ và chương Đất Nước trong trường ca Mặt đường khát vọng của anh đã được tuyển chọn vào sách giáo khoa Ngữ văn giảng dạy trong nhà trường. Nguyễn Khoa Điềm là một trong những gương mặt thơ tiêu biểu của thế hệ thơ trẻ xuất hiện trong những năm chiến tranh chống Mỹ./.

4/16/11

Huế - Nghề Kim Hoàn Kế Môn

Cách trung tâm thành phố Huế khoảng 40km về phải Đông-Bắc là làng Kế Môn, xã Điền Môn, huyện Phong Điền. Nơi đây nổi tiếng có nghề kim hoàn. Nghề kim hoàn ở Kế Môn là nghề gia công cổ truyền đồ trang sức, trang trí bằng chất liệu vàng hoặc bạc, bao gồm ba bộ phận:
- Ngành trơn: là người thợ sản xuất các sản phẩm đơn giản, không chạm trổ nhiều.
- Ngành đậu: thường làm các hình hoa văn kỷ hà để gắn lên mặt sản phẩm.
- Ngành chạm: chạm trổ các hình và hoa văn trên các sản phẩm.
Các sản phẩm kim hoàn ở đây đã đáp ứng được nhu cầu về trang sức, trang trí của cư dân và quan lại ở chốn kinh thành Huế ngay từ cuối thế kỷ XVIII do nhiều người thợ kim hoàn từ phương Bắc vào, tiêu biểu là ông Cao Đình Độ quê ở Thanh Hóa đã đến định cư ở làng Kế Môn hành nghề kim hoàn và mở lớp truyền dạy cho các thế hệ con cháu.
Sản phẩm kim hoàn ở Kế Môn nổi tiếng có chất lượng tốt so với nhiều nơi khác với kỹ thuật tay nghề tinh xảo và chạm khắc cầu kỳ được làm ra bởi những người thợ có kinh nghiệm, khéo tay và giàu khiếu thẩm mỹ sáng tạo, thể hiện rõ nhất là trên các đồ trang sức như vòng, kiềng, nhẫn, lắc, dây chuyền, khuyên tai bằng vàng hoặc bạc.

Hiện nay, nhiều người thợ kim hoàn ở làng Kế Môn đã hành nghề phân tán ở nhiều nơi, nhất là ở thành phố Huế, hầu hết các cửa hiệu bán vàng bạc đều là người gốc Kế Môn. Nghề kim hoàn ở Huế ngày càng phát triển đáp ứng nhu cầu xã hội về vấn đề trang sức, trang trí hiện nay.


Tác giả bài viết: Xuân Thao (Theo Cinet)

4/15/11

Chùa Ưu Điềm

1. Lịch sử:

Chùa Ưu Điềm còn có tên là Ưu Đàm. Chùa toạ lạc tại làng Ưu Điềm, xã Phong Hoà, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Chùa cách trung tâm thành phố Huế khoảng 40km về hướng Bắc. Tên chùa Ưu Đàm xuất phát từ tên loài hoa Ưu Đàm Bát La. Đây là một loài hoa quý hiếm, tương truyền 3000 năm mới xuất hiện một lần. Hoa xuất hiện thì kim luân vương xuất hiện, Phật xuất thế. Ngoài tên chữ của chùa là Ưu Đàm, chùa còn có tên dân gian là chùa Bà Lồi, hay chùa Lồi. Giải thích về những tên dân gian này, các truyền thuyết dân làng kể lại đều có nguồn gốc từ một sự tích của pho tượng Bà Lồi, tức tượng nữ thần XiKa: xuất phát từ câu chuyện tượng Bà Lồi nên chùa còn được dân gian gọi là chùa Bà Lồi, hàng năm vào mùa lũ lụt, con dân trong làng đều tập trung lên chùa để tránh lụt, họ phát hiện chùa chưa hề bị nước ngập và hình như nước càng lên thì chùa cũng nổi theo, nên từ đó chùa còn được gọi là chùa Lồi...

Chùa quay mặt về hướng chính Nam, trước mặt là cánh đồng lúa, sau lưng là sông Ô Lâu. Chùa có từ lâu đời. Theo dân làng kể lại thì vào khoảng thế kỷ thứ 16, khi chúa Nguyễn vào Nam lập nghiệp, để bình định và vỗ an dân chúng, hầu hết các làng xã đồng loạt xây chùa dựng tượng để con dân sinh hoạt tín ngưỡng, ổn định tinh thần mà chăm lo làm ăn, chùa Ưu Đàm cũng ra đời trong thời điểm đó.
Nhưng theo sách Ô Châu Cận Lục của Dương Văn An hiệu đính năm 1555, trong chương Phong tục có nhắc đến chùa Ưu Đàm một câu là: Am Ưu Đàm nở nhiều hoa Bát La. Điều này có thể chứng minh cho việc chắc chắn chùa đã phải có trước thời các chúa Nguyễn vào Nam lập nghiệp.

2. Kiến trức - Di vật
Trải qua thời gian chiến tranh, chùa được tu sửa nhiều lần. Theo sách Đại Nam Nhất Thống Chí mục chùa quán thì đến năm Minh Mạng thứ 2, Tân Tỵ (1821) chùa được nhà vua ban chiếu, cấp bổng lộc để trùng tu. Năm 1954, chùa lại bị bom đạn làm hư hại và xuống cấp, dân làng đã góp công góp của xây dựng lại bằng bê tông cốt thép theo mô hình kiến trúc kiểu chữ Công gồm tiền đường, chánh điện và hậu liêu.
Trong những năm trở lại đây, mặc dầu chùa không đại trùng tu, nhưng chùa cũng đã chỉnh trang, sửa chữa cũng như đã làm mới rất nhiều hạng mục. Những công trình có giá trị như Tiền đường, chánh điện, cổng tam quan, Quan Âm các, Đoàn quán Gia đình Phật tử, nhà ở... tất cả đã trở thành một hệ thống kiến trúc kiên cố và khang trang hơn rất nhiều.
Hiện tại chùa vẫn bảo lưu được một số cổ vật, pháp bảo cũng như những di chỉ xưa quý rất có giá trị văn hoá và khảo cổ như bộ tượng Bồ tát Di Lặc và Quán Âm được nắn bằng đất sét nhồi trấu, nồng tre sơn thếp vàng rất đẹp. Đáng chú ý hơn hết là di chỉ Chăm Pa gồm một tượng nữ thần XiKa, bức phù điều vũ nữ cũng như trụ đá Linga... đã gây được sự chú ý và quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Để bảo quản tốt những di vật này, năm 1995 Ban Hộ tự  của chùa đã cho quy tụ và xây dựng tôn trí tượng và các phù điêu, cổ vật trên một ví trí khu đất 50m2sát bên cạnh chùa, dân làng gọi đó là Am Bà Phật Lồi. Hằng năm, có các đoàn khảo cổ từ cấp trung ương đến cấp tỉnh cũng như các giáo sư tiến sĩ nước ngoài đến tìm hiểu khảo sát.
Tất cả những cổ vật, pháp bảo xưa quý trên của chùa hiện vẫn còn rất nguyên trạng và được bảo quản tốt. Đáng tiếc, tượng nữ thần XiKa đã bị biến dạng qua nhiều “biến cố”. Nguyên tượng được tạc bằng sa thạch, do ý thức bảo quản chưa tốt nên người ta đã cho sơn son thếp vàng. Vì vậy từ những năm 1975 đến 1980 những "đạo tặc" thiếu kiến thức tưởng là bằng vàng thật nên đã đến cưa tay, cưa đầu. May thay, tượng bằng đá nên đám ăn cắp đã  bỏ lại, dân làng thỉnh về hàn lại. Mặc dầu vậy, giá trị nguyên bản của pho tượng cũng đã phần nào biến dạng.
Chùa Ưu Đàm ngày nay là một trong những ngôi chùa được xếp vào hạng di tích lịnh sử cấp tỉnh, đồng thời trên bảng đồ du lịch của sở du lịch tỉnh Thừa Thiên - Huế đã có bảng chỉ đường cho khách tham quan tìm đến tham quan và tìm hiểu lịch sử ngôi chùa là nơi chốn linh thiêng nhất của là Ưu Điềm (Đàm).

Nguồn: Sưu tầm từ Internet

Chùa Ưu Đàm (Điềm): Nơi bảo lưu những pháp bảo quý

Chùa Ưu Đàm (Điềm)
Cách trung tâm thành phố Huế khoảng 40km về hướng Bắc, dọc theo con đường quốc lộ đến cầu Mỹ Chánh rồi rẽ theo đường quốc lộ 49B về chưa được 5km thì đến chùa Ưu Đàm (Điềm). Tên Ưu Đàm xuất phát từ một loài hoa Ưu Đàm bát  la (Udumbara) một loài hoa quý hiếm, tương truyền 3000 năm mới xuất hiện một lần, hoa xuất hiện thì kim luân vương xuất hiện, Phật xuất thế, các bô lão thủa ấy lấy đó đặt tên chùa và tên làng là Ưu Đàm. Chùa toạ lạc trên một khu “gò nổi” thuộc Giáp Tư thôn Ưu Điềm xã Phong Hoà, huyện Phong Điền tỉnh Thừa Thiên-Huế. Chùa quay mặc về hướng chính Nam, trước mặc lấy cánh đồng ruộng lúa làm tiền án, sau lưng có con sông Ô Lâu huyền thoại ôm lấy làm hậu chẩm. Chùa có từ lầu đời. Theo dân làng kể lại thì vào khoảng thế kỷ thứ 16, khi chúa Nguyễn vào Nam lập nghiệp, để bình định và vỗ an dân chúng, hầu hết các làng xã đồng loạt xây chùa dựng tượng để con dân sinh hoạt tín ngưỡng, ổn định tinh thần mà chăm lo làm ăn, chùa Ưu Đàm cũng ra đời trong thời điểm đó.
Nhưng theo sách Ô Châu Cận Lục của Dương Văn An hiệu đính năm 1555 trong chương Phong Tục có nhắc đến chùa Ưu Đàm một câu rằng “Am Ưu Đàm nở nhiều hoa Bát la” thì chắc chắn chùa nầy phải có trước thời các chúa Nguyễn vào Nam lập nghiệp.
Trải qua thời gian chiến tranh, chùa được tu sửa nhiều lần. Theo sách Đại Nam Nhất Thống Chí mục chùa quán thì đến năm Minh Mạng thứ 2, Tân Tỵ (1821) chùa được nhà vua ban chiếu, cấp bổng lộc để trùng tu. Năm 1954 chùa lại bị bom đạn làm hư hại và xuống cấp, con dân trong làng đã góp công góp của xây dựng lại bằng bê tông cốt thép theo mô hình kiến trúc kiểu chữ Công gồm tiền đường, chánh điện, và hậu liêu.

Cổng Chùa
Trong những năm trở lại đây, từ năm 1995 cho đến nay, mặc dầu chùa không đại trùng tu, nhưng đã chỉnh trang, sửa chữa cũng như đã làm mới rất nhiều hạng mục. Những công trình có giá trị như Tiền đường, chánh điện, cổng tam quan, Quan Âm các, Đoàn quán Gia đình Phật tử, nhà ở...tất cả đã trở thành một hệ thống kiến trúc kiên cố và khang trang hơn rất nhiều.
Hiện tại chùa vẫn bảo lưu được một số cổ vật, pháp bảo cũng như những di chỉ xưa quý rất có giá trị văn hoá và khảo cổ như bộ tượng Bồ tát Di Lặc và Quán Âm được nắn bằng đất sét nhồi trấu, nồng tre sơn thếp vàng rất đẹp. Đáng chú ý hơn hết là di chỉ Chăm-pa gồm một tượng nữ thần XiKa, bức phù điều vũ nữ cũng như trụ đá Linga... đã gây được sự chú ý và quan tâm của nhiều ban ngành của BTS cũng như của chính quyền tỉnh Thừa Thiên-Huế. Để bảo quản tốt những di vật nầy, năm 1995 Ban Hộ tự đã cho quy tụ, và xây dựng tôn trí tượng và các phù điêu, cổ vật trên một ví trí khu đất 50m2 sát bên cạnh chùa, dân làng gọi đó là Am Bà Phật Lồi. Hằng năm, có các đoàn khảo cổ từ cấp trung ương đến cấp tỉnh cũng như các giáo sư tiến sĩ nước ngoài đến tìm hiểu khảo sát.

Tượng Phật Di Lặc và Bồ Tát Quán Thế Âm bằng chất lịêu đất sét nhồi trấu


Tất cả những cổ vật, pháp bảo xưa quý trên của chùa hiện vẫn còn rất nguyên trạng và được bảo quản tốt. Đáng tiếc, tượng nữ thần XiKa đã bị biến dạng qua nhiều “biến cố”. Nguyên tượng được tạc bằng sa thạch, do ý thức bảo quản chưa tốt nên người ta đã cho sơn son thếp vàng vì vậy từ những năm 1975 đến 1980 những "đạo tặc" thiếu kiến thức tưởng là bằng vàng thật nên đã đến cưa tay, cưa đầu. May thay, tượng bằng đá nên đám ăn cắp đã  bỏ lại, dân làng thỉnh về hàn lại. Mặc dầu vậy, giá trị nguyên bản của pho tượng cũng đã phần nào biến dạng.
Ngoài tên chữ của chùa là Ưu Đàm, chùa còn có tên dân gian là chùa Bà Lồi, hay chùa Lồi. Giải thích về những tên dân gian nầy các truyền thuyết dân làng kể lại đều có nguồn gốc từ một sự tích của pho tượng Bà Lồi, tức tượng nữ thần XiKa:  xuất phát từ câu chuyện tượng Bà Lồi nên chùa còn được dân gian gọi là chùa Bà Lồi, hàng năn vào mùa lũ lụt, con dân trong làng đều tập trung lên chùa để tránh lụt, họ phát hiện chùa chưa hề bị nước ngập và hình như nước càng lên thì chùa cũng nổi theo, nên từ đó chùa còn được gọi là chùa Lồi...
Chùa Ưu Đàm ngày nay là một trong những ngôi chùa được xếp vào hạng di tích lịnh sử cấp tỉnh, đồng thời trên bảng đồ du lịch của sở du lịch TT-Huế đã có bảng chỉ đường cho khách tham quan tìm đến tham quan và tìm hiểu lịch sử ngôi chùa là nơi chốn linh thiêng nhất của là Ưu Điềm (Đàm).
Tượng nữ thần Xika
Phù điêu và tiểu thực khí

Bài, ảnh Trí Năng
 Nguồn: Theo Báo Giác Ngộ Online

4/11/11

Truyền thuyết hoa hồng xanh

Ngày xửa ngày xưa ở vương quốc hoa hồng có một thằng ngốc tên Stupid. Thằng ngốc may mắn được nhà vua giao cho chăm sóc vườn hoa hồng. Nhà vua có một cô công chúa rất xinh tên Rose.
Công chúa rất thích hoa hồng nên yêu cầu thằng ngốc mỗi ngày hãy mang cho mình một bó hoa hồng thật đẹp. Tuy nhiên thằng ngốc không biết bó hoa thế nào cả. Nó bèn xin với công chúa:

-Xin lỗi công chúa nhưng tôi có thể mang đến mỗi ngày chỉ một bông hoa được không .

Ban đầu công chúa thấy không vui một chút nào.Tuy nhiên thằng ngốc đều cố gắng mỗi ngày mang đến cho công chúa một bông hoa đẹp nhất. Thằng ngốc chẳng biết làm việc gì khác ngoài việc chăm sóc những bông hoa.Mỗi khi có ai đó bắt nó đi làm việc gì đó là nó lại nói:

- Xin lỗi nhưng tôi hậu đậu lắm! Tôi sẽ làm hỏng hết mất...

Vậy là người ta lại chán nản bỏ đi. Cũng bởi vậy nên không ai chơi với thằng ngốc cả. Thằng ngốc hàng ngày cứ thui thủi bên những bông hoa của nó. Dường như thằng ngốc chẳng bao giờ biết buồn là gì... Những bông hoa mà thằng ngốc mang đến cho công chúa mỗi ngày đều rất đẹp. Đôi khi công chúa ngắm nhìn những bông hoa đó và tự hỏi: "Một thằng ngốc thì làm thế nào mà tạo ra những bông hoa đẹp như vậy nhỉ".

Rồi một ngày công chúa quyết định đến thăm vườn hoa của thằng ngốc. Thằng ngốc đang lúi cúi tưới cho một khóm hoa hồng. Với công chúa thì công việc này thật lạ. Công chúa tò mò đến gần thằng ngốc và làm nó giật mình. Thằng ngốc làm rơi bình tưới hoa và làm bắn bẩn lên váy áo của công chúa:

- Xin lỗi công chúa_Thằng ngốc hốt hoảng_Tôi thật là hậu đậu.

- Không sao! Ta sẽ tha tội cho ngươi nhưng ngươi phải chỉ cho ta cách ngươi tạo ra nhũng bông hoa này.

Thằng ngốc ngạc nhiên quá "Công chúa mà quan tâm đến cách trồng hoa ư?!"

- Rất đơn giản thưa công chúa... Và thằng ngốc say sưa nói với công chúa tất cả những gì nó biết về hoa hồng,về cách trồng hoa, cách chăm sóc chúng...Thằng ngốc cảm thấy rất lạ khi công chúa tỏ ra rất thích thú với những gì nó nói. Và khi thằng ngốc bắt gặp ánh mắt công chúa đang chăm chú nhìn nó thì tự nhiên nó trở nên luống cuống. Một lần nữa nó lại đánh rơi bình tưới hoa

- Xin lỗi công chúa... tôi vụng về quá đi mất.

- Ngươi thật là ngốc! Nhưng những gì ngươi nói về hoa hồng rất hay. Ngày mai ta sẽ lại tới.

Công chúa trở lại cung điện và thằng ngốc lại say sưa tưới hoa. Tuy nhiên nó vừa tưới hoa vừa hát. Chưa ai nghe thất thằng ngốc hát bao giờ cả... Ngày hôm sau thằng ngốc dậy rất sớm. Nó quét dọn những lối đi, nhổ cỏ bên những khóm hoa. Nhưng công chúa không đến nữa. Thằng ngốc đợi mãi mà công chúa vẫn không đến. Nó đâu biết hôm đó là một ngày đặc biệt. Nhà vua tổ chức một lễ hội rất lớn trong cung đình. Có rất nhiều các vị vua, những hoàng tử của các nước láng giềng... Công chúa chẳng muốn đến lễ hội một chút nào. Nàng nhất định không chịu mặc bộ váy dạ hộ. Chỉ đến khi viên tổng quản xuất hiện và nhã nhặn:

-Xin lỗi công chúa nhưng đây là mệnh lệnh của nhà vua...

Công chúa phải có mặt trong lễ hội. Nhà vua muốn thông qua lễ hội tìm cho con gái mình một vị hoàng tủ thích hợp. Tất cả các hoàng tủ tham gia lễ hội đều được thông báo về điều đó. Ai cũng rất háo hức được gặp công chúa (vì nghe nói công chúa rất xinh ). Và mọi người không phải chờ đợi lâu. Công chúa xuất hiện trong bộ váy dạ hội mầu trắng, vương niệm của nàng được kết bằng những bông hoa hồng đỏ. Một vài hoàng tủ đánh rơi ly rượu trong tay, một số khác phải mất một lúc lâu mới biết mình đang đứng ở đâu.Ngay đến các nhạc công cũng quên mất những nốt nhạc của mình.Ai cũng muốn được cùng nhảy với công chúa một bài, công chúa đều nhiệt tình đáp lại. Tuy nhiên chẳng ai lọt vào mắt xanh của công chúa cả. Nàng công chúa xinh đẹp chẳng thể tìm được cho mình một vị hoàng tủ thích hợp. Khi mà nhà vua gần như tuyệt vọng thì điều bất ngờ đã xãy ra. Đúng vào lúc bữa tiệc sắp tàn thì một chàng hoàng tử cưỡi một con bạch mã tuyệt đẹp xuất hiện. Hoàng tử đến trước mặt công chúa và mỉm cười:

- Xin lỗi cô bé! Ta không đến quá muộn đấy chứ.

Công chúa bỗng cảm thấy tim mình đập rộn ràng. Đó là những cảm xúc kì lạ mà công chúa không thể định nghĩa nổi... Giai điệu ngọt ngào của bản Vanx như hòa nhịp cùng bước nhẩy của hai người. Hoàng tử kể cho công chúa nghe về những miền đất xa lạ mà hoàng tử đã đi qua. Những câu chuyện kéo dài như bất tận . Thời gian dường như không còn là mối quan tâm của hai người nữa...Mãi đến khi những vì sao đã sáng lấp lánh trên bầu trời, khi mà cả thằng ngốc và những bông hoa hồng đều đã ngủ say , hoàng tử mới lên ngựa từ biệt công chúa... Công chúa trở về cung điện và cho gọi thằng ngốc tới.(Tội nghiệp thằng ngốc đang ngủ say thì bị dựng dậy)

- Ngươi có biết làm thế nào để cung điện của ta thật đẹp không ! Ngày mai hoàng tử sẽ lại tới.Ta muốn dành cho chàng một sự ngạc nhiên.

-Thưa công chúa...hoàng tử.. à vâng thưa công chúa , tôi sẽ trang trí cung điện của công chúa bằng tất cả hoa hồng trong vườn. Cung điện của công chúa sẽ trở thành cung điện hoa hồng.

- Một ý tưởng tuyệt vời! Ngươi cũng không ngốc lắm đâu! Nhưng ta sợ ngươi sẽ không thể làm xong nó trong đêm nay.

- Tôi sẽ cố hết sức thưa công chúa...

Vậy là suốt cả đêm đó những bông hoa hồng còn ướt đẫm sương đêm được thằng ngốc cẩn thận hái từ vườn hoa mang vào cung điện. Khi cung điện của công chúa tràn ngập hoa hồng cũng là lúc trời vừa sáng. Khi công chúa thức dậy, nàng không thể tin vào mắt mình, trước mắt nàng là một cung điện đẹp như trong truyện cổ tích vậy. Công chúa đi dạo một vòng và thấy thằng ngốc ngủ gật bên cạnh một chiếc cột đá:

- Stupid. Dậy đi nào.Trời sáng rồi.

- Xin lỗi công chúa, tôi lại ngủ quên mất, tôi sẽ hoàn thành nốt công việc ngay thôi.

- Không cần nữa. Như vậy là được rồi. Nguơi hãy về nghỉ ngơi đi. Thằng ngốc thở phào vì công chúa đã không trách nó chưa hoàn thành công việc. Nó vui vẻ trở về với vườn hoa giờ chỉ còn trơ những gốc. Công chúa đến bên cửa sổ và nhìn về phía những ngọn núi xa, nơi mà từ đó hoàng tử sẽ lại tới. Công chúa sẽ dẫn hoàng tử đi thăm cung điện hoa hồng của mình . Hoàng tử sẽ lại kể cho công chúa nghe câu chuyện về những miền đất xa lạ....

Nhưng rồi chẳng có hoàng tử nào đến cả. Chỉ có người hầu của Hoàng tử mang theo một bức thư: -"..Cô bé của ta,Ta không thể đến với em như đã hẹn .Đất nước của ta có chiến tranh.Ta phải tham gia vào cuộc chiến. Có lẽ chúng ta sẽ phải xa nhau một thời gian dài. Ta không muốn thế một chút nào. Ta sẽ rất nhớ em. Nhưng ta tin thời gian sẽ chứng minh cho tình yêu của chúng ta. Ta sẽ sớm gặp lại em... _______Tornado_____ ......."

Công chúa buồn lắm. Những giọt nước mắt lăn dài trên đôi môi.."Em sẽ đợi! Nhưng nhất định chàng phải trở về đấy!....." ...Một tuần, rồi một tháng, rồi một năm...Chẳng có tin tức gì của hoàng tử . Hoàng tử như một cơn gió cứ bay mãi, bay mãi mà chẳng biết bao giở sẽ trở lại . Công chúa thường đứng một mình bên khung của sổ mỗi buổi hoàng hôn và nhìn về phía những ngọn núi xa, nơi ánh mặt trời dần tắt. Có thể một ngày nào đó...Cũng hơn một năm đó không thấy thằng ngốc mang hoa hồng cho công chúa mỗi buổi sớm nữa. Có thể là sau khi trang hoàng cho cung điện vuờn hoa của thằng ngốc đã chẳng còn một bông hoa nào cả. Công chúa hình như cũng chẳng quan tâm đến những bông hoa hồng của thằng ngốc nữa...

Rồi một buổi sáng sớm khi công chúa thức dậy, có ai đó đã đặt sẵn bên của sổ một bông hoa hồng tuyệt đẹp. Công chúa ngắm nhìn bông hoa và chợt nhớ tới thằng ngốc. "Một năm rồi Stupid không mang hoa tới..".Công chúa trở lại vườn hoa của thằng ngốc. Trước mắt công chúa không phải là những gốc cây trơ trụi mà là muôn ngàn những bông hồng rực rỡ. Thằng ngốc vẫn lúi cúi bên những khóm hoa hồng. Thằng ngốc nhìn thấy công chúa và một lần nữa nó lại đánh rơi bình tưới hoa:

- Xin lỗi công chúa! Tôi đã cố hết sức nhưng không thể làm cho vườn hoa đẹp như xưa.

- Ồ không! Thật là kỳ diệu! Nói cho ta biết đi, ngươi đã làm thế nào vậy?!

Lần đầu tiên trong đời có người nói với nó như vậy, mà lại là một công chúa nữa chứ. Thằng ngốc vui lắm, nó cười ngây ngô và lại say sưa nói với công chúa về những bông hoa ...Những ngày sau đó ngày nào công chúa cũng đến vườn hoa của thằng ngốc. Công chúa tự mình trồng những bông hoa, tự mình tưới nước cho chúng . Ban đầu thằng ngốc cảm thấy rất lạ nhưng rồi nó cũng hiểu ra rằng công chúa đang cố làm tất cả để nguôi ngoai nỗi nhớ hoàng tử. Thằng ngốc rất vui vì dù sao cũng có người cùng nó trò chuyện, có người chịu nghe nó nói cả ngày về những bông hoa hồng. Thằng ngốc cố làm cho công chúa vui những lúc công chúa ở bên nó. Có một lần thằng ngốc nói với công chúa về ý nghĩa của các loài hoa:

- Hoa hồng bạch là tình bạn chân thành, hồng nhung là tình yêu nồng thắm, hồng vàng là... - Vậy còn hồng xanh , nó tượng trưng cho điều gì - Hồng xanh là tình yêu bất diệt ! thưa công chúa,nhưng nó không có thật.

- Vậy tại sao nó lại tượng trưng cho tình yêu bất diệt?!

- Đó là một huyền thoại,thưa công chúa. Người ta nói rằng nếu ta trồng một cây hoa hồng bằng cả trái tim dành cho người mình yêu thương thì nó sẽ nở ra một bông hoa hồng xanh. Đó là bông hoa có phép mầu, nó sẽ cho một điều ước..

- Ta sẽ ước chiến tranh kết thúc và hoàng tử sẽ trở về bên ta...

- Thưa công chúa! Không có điều gì là không thể xãy ra .Tôi tin nếu công chúa thành tâm biết đâu cây hoa mà công chúa trồng sẽ nở ra một bông hoa hồng xanh.

- Ta tin ngươi...

Và từ hôm đó công chúa dành hết thời gian để chăm sóc cho cây hoa hồng của mình. Nhưng không hiểu sao cây hoa mà công chúa trồng mãi vẫn không nở một bông hoa nào cả. Có một sự thật mà có lẽ thằng ngốc không bao giờ dám nói. Đó là câu chuyện về hoa hồng xanh chỉ là một lời nói dối. Thằng ngốc không muốn thấy công chúa quá đau buồn nên nó đã nghĩ ra câu chuyện về bông hoa hồng xanh và điều ước...

Nhưng rồi thằng ngốc mới thấy đó là một sai lầm rất lớn. Nó sợ cái ngày mà cây hoa của công chúa nở ra một bông hoa bình thường. Công chúa sẽ rất buồn. Thằng ngốc không muốn làm công chúa buồn một chút nào. Nó cố tìm trong vườn hoa bao la của nó một bông hoa hồng xanh nhưng chẳng có bông hồng xanh nào cả....Rồi một đêm thằng ngốc trằn trọc mãi không ngủ được. Bỗng nhiên nó nghe thấy một giọng nói như tiếng thì thầm vậy

- Stupid! Sao ngươi buồn thế?! -Ai vậy... Ta là hoa hồng đây.

- Hoa hồng ư? Sao ngươi có thể nói được.

- Ngươi ngốc quá, ta luôn nói chuyện với ngươi mà ngươi không để ý đấy thôi, loài hoa nào cũng nói được, chỉ là có bao giờ ngươi lắng nghe không mà thôi.Có chuyện gì mà ngươi buồn vậy.?

- Ta.. Ta đã trót nói dối công chúa về hoa hồng xanh. Ta không nghĩ là công chúa lại đặt nhiều niềm tin vào hoa hồng xanh đến thế.

- Stupid. Ngươi đang nghĩ gì vậy. Ta nói cho ngươi biết điều này nhé: Huyền thoại mà ngươi đã nói với công chúa là có thật đấy.

- Sao cơ. Thế nghĩ là hoa hồng xanh là có thật. Ngươi biết làm thế nào để tạo ra hoa hồng xanh phải không.?

- Ta biết..Nhưng ta không thể nói cho ngươi được

- Tại sao chứ.? Ta xin ngươi đấy

- Stupid à.. Ngươi thật là ngốc quá, ngươi làm tất cả là vì cái gì chứ.

- Ta..Ta muốn công chúa có bông hoa hồng xanh . Ta muốn ước mơ của công chúa trở thành sự thực. Ta không muốn thấy công chúa buồn..

- Ôi Stupid. Ta không muốn nói cho ngươi một chút nào, nhưng thôi được rồi, nếu ngươi thực sự muốn có một bông hoa hồng xanh, ta sẽ chỉ cho ngươi cách ...

Và hoa hồng ghé tai thằng ngốc thì thầm điều gì đó mà chỉ có thằng ngốc nghe rõ. Khuôn mặt thằng ngốc bỗng ngẩn ngơ đến khó hiểu. Rồi người ta thấy thằng ngốc ngước nhìn bầu trời đầy sao và mỉm cười.... Sáng sớm hôm sau khi công chúa vừa thức dậy thì người hầu của nàng đã chạy vào:

- Thưa công chúa, thật không thể tin được, người hãy ra mà xem, cây hoa mà công chúa trồng đã nở một bông hoa màu xanh.

Công chúa như không tin vào những gì mình nghe thấy. Nàng chạy ngay ra vườn hoa . Trước mắt nàng là một bông hoa hồng xanh tuyệt đẹp. Những cánh hoa lấp lánh những giọt sương sớm long lanh dưới ánh sáng mặt trời. Công chúa cầm bông hoa đặt lên trái tim . Nàng còn chưa kịp nói điều ước thì người hầu của nàng đã vào báo:

- Thưa công chúa.!Hoàng tử đã thắng trận trở về. Có lẽ hoa hồng xanh đã biết truớc điều ước của nàng nên không cần công chúa phải nói ra.

Công chúa băng qua quảng trường rộng mênh mông để đến bên cổng thành. Quả nhiên từ phía ngọn núi xa hoàng tử đã trở về, chiếc áo bào sạm đen vì khói bụi. Hoàng tử xuống ngựa ngay khi chàng trông thấy công chúa, quên đi cả những mệt mỏi bao tháng ngày qua, vòng tay ôm chặt công chúa như không bao giờ muốn buông ra vậy
.
- Cô bé của ta! Ta nhớ nàng quá.

- Em gần như đã tuyệt vọng, chàng biết không .Nhưng điều kỳ diệu đã xảy ra.Chàng hãy nhìn xem, một bông hoa hồng xanh .Chính nó đã mang chàng về với em.

- Hoa hồng xanh! Ta tưởng làm gì có hoa hồng xanh trên thế gian này! - Có chứ. Đó là một huyền thoại. Em sẽ dẫn chàng đến vườn hoa. Stupid sẽ kể cho cho chàng nghe huyền thoại về hoa hồng xanh. Vậy là hoàng tử và công chúa cùng đến vườn hoa của thằng ngốc.

- Stupid! Ngươi đâu rồi. Ra đây đi nào, hoàng tử muốn nghe câu chuyện về hoa hồng xanh của ngươi.... Nhưng Stupid đã biến đi đâu mất. Công chúa gọi mãi, gọi mãi mà không thấy thằng ngốc đâu cả. Bên gốc hoa mà công chúa trồng chiếc bình tưới hoa được dựng ngay ngắn. Chẳng hiểu thằng ngốc đã biến đi đâu mất.

Chỉ còn cơn gió thổi những bông hoa hồng đung đưa như đang hát một bài hát từ rất xa xưa "Tình yêu chân thành bắt đầu từ trái tim,chỉ có máu từ con tim của một kẻ đang yêu mới tạo ra bông hồng xanh bất diệt. Và bông hồng xanh sẽ tạo nên điều kỳ diệu..."

Sưu tầm