Nhà thờ họ Lê - Thanh Nông Ưu Kế

Nhà thờ Họ được xây dựng tại Quảng Thành, huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

Nhà thờ Họ Lê - Thanh Hương

Đây là nhà Thờ Họ Lê - Thanh Hương được xây dựng tại Làng Thanh Hương - Huyện Phong Điền, Tỉnh Thừa Thiên - Huế.

Họ Lê - Kế Môn

Đây là nhờ thờ Họ Lê làng Kế Môn, được xây dựng tại Làng Kế Môn huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế.

Lá cờ của Họ

Được treo tại Quảng Thành, Bà Rịa - Vũng Tàu.

Nhà thờ Họ Lê - Phú Nông

Đây là nhà thờ họ Lê của Làng Phú Nông - được xây dựng tại Làng Phú Nông huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế .

Chào mừng Quý vị đã đến với trang web của họ Lê chúng tôi !.

Lorem ipsum eu usu assum liberavisse, ut munere praesent complectitur mea. Sit an option maiorum principes. Ne per probo magna idque, est veniam exerci appareat no. Sit at amet propriae intellegebat, natum iusto forensibus duo ut. Pro hinc aperiri fabulas ut, probo tractatos euripidis an vis, ignota oblique.

Ad ius munere soluta deterruisset, quot veri id vim, te vel bonorum ornatus persequeris. Maecenas ornare tortor. Donec sed tellus eget sapien fringilla nonummy. Mauris a ante. Suspendisse quam sem, consequat at, commodo vitae, feugiat in, nunc. Morbi imperdiet augue quis tellus.

8/22/11

Tọa đàm giữa ông Nguyễn Trần Bạt và các cán bộ nghiên cứu (Phần cuối)

Tôi cho rằng chủ nghĩa tư bản không lãnh đạo gì, không đóng vai trò gì trên thực tế mà đấy là bản năng thương mại của toàn nhân loại được huy động trong quá trình toàn cầu hóa, và đừng nhầm lẫn nó là toàn cầu hóa tư bản chủ nghĩa. Đấy là quan điểm của tôi. Và các dân tộc phải đủ tự do để con người của nó trở nên thông minh để nhặt nhạnh các cơ hội và né tránh các rủi ro. Khi tôi đến trường Harvard, tôi có 40 phút nói chuyện tại một lớp luật, ở trường đó có một luật lệ rất lạ là đã vào lớp rồi thì không thể ra ngoài. Tôi có nói đến câu chuyện là làm thế nào để thế giới chống lại được sự rủi ro do sự luôn luôn mới: người mới, hàng mới, cách thức mới của nền kinh tế thế giới xâm nhập vào các vùng khác nhau, nhất là các vùng chậm phát triển. Và đấy chính là bản chất của các gọi là nền kinh tế trí thức. Nền kinh tế trí thức là nền kinh tế mà trí thức trở thành lực lượng giúp xã hội phân loại giữa cơ hội và rủi ro. Nếu chúng ta cứ tiếp tục đào sâu cái rãnh mà chúng ta vẫn quen nghĩ thì nó giống như việc chúng ta đi giữa một cái hào kín, chúng ta không có cách gì để có thể nhìn ra hai bên được để mà hỗ trợ xã hội trong việc phân loại và tránh né rủi ro. Cho nên, con người chỉ có thể phát triển bằng tự do, những nước càng chậm phát triển bao nhiêu thì càng cần tự do bấy nhiêu, bởi vì anh phải bù lại cái phần thiếu hụt năng lực vốn có mà lịch sử đã tạo ra cho mỗi một công dân trong các quốc gia chậm phát triển. Đấy chính là phi chính trị hóa, phi chính trị hóa chứ không vô chính trị hóa. Tôi có thể yêu đảng cộng sản, có thể không, chẳng sao cả. Tôi luôn luôn nghĩ rằng sự đa dạng về các đặc trưng chính trị là một thực tế của đời sống chính trị toàn cầu. Nếu gò ép nhân dân để giữ cho được cái bản sắc nào đấy thì có nghĩa là tự mình phá hoại mình. Năm 1985, tôi cùng nhà tôi đi dự cuộc họp báo về việc đổi tiền, người ta nói rằng đáng ra lúc đầu định đổi 1-1 nhưng in không kịp cho nên đổi 1-10. Nghe xong tôi toát mồ hôi, tôi bảo, tại sao đối với tài sản của con người mà người ta vô trách nhiệm đến thế. Năm 1986 chúng ta đổi mới, người Việt Nam bỗng dưng nở ra, có phải đấy chính là một bằng chứng rằng, tự do đem lại cho con người sự bùng nổ sức sống? Ở giai đoạn đầu những năm 80, có lúc tôi đã trông thấy một vài bà phu nhân ra ngoài chợ giúi mấy tút thuốc tiêu chuẩn cho mấy con phe ở phố Phủ Doãn hay ở đâu đó. Các anh các chị khi nhớ lại những hình ảnh như vậy thì thấy rằng thật là tội nghiệp cho chúng ta khi chúng ta không tự do.
Chúng ta không hề vô chính trị khi có tự do về chính trị. Lịch sử yêu nước là lịch sử có thật, chúng ta không tin vào lịch sử yêu nước cho nên chúng ta buộc phải có những biện pháp phụ trợ để duy trì nó, xem nó là một thuộc tính để có thể luôn luôn yên tâm về sự tồn tại của chủ nghĩa yêu nước trong người Việt. Nhưng tôi không nghĩ thế, chủ nghĩa yêu nước của người Việt là một thuộc tính tự nhiên của người Việt, làm mất nó đi khó hơn nhiều so với việc giữ nó. Tôi thấy chúng ta có những cố gắng trái tự nhiên một cách kỳ lạ. Tôi có một người bạn, chị ấy đã mất rồi, chồng chị ấy là sếp của tôi, chị ấy là em gái anh Phạm Sỹ Liêm, phó chủ tịch thành phố Hà Nội. Chị ấy kể chuyện khi sang Moscow có ông đại sứ người Nghệ An quen biết nhìn thấy chị ấy trong ga tàu điện ngầm và cứ gọi ầm lên: “ Này Hào ơi! Dừng lại anh bảo” làm chị ấy ngượng. Tôi hỏi các anh chúng ta duy trì cái bản sắc ấy để làm gì? Nói to giữa chợ là một bản sắc vì thực ra bản sắc chính là thói quen. Chúng ta phải thay đổi thói quen phù hợp để tiếp cận cái mới. Vì bản chất của toàn cầu hóa là chở đến các ngõ ngách khác nhau của đời sống những vật phẩm mà thiên hạ có. Tôi là người đưa hãng Coca cola vào Việt Nam . Hôm làm lễ ra mắt, trước cửa nhà hát lớn họ bơm một chai Coca cola bằng nilon đen ngòm cao đến 4-5 thước đặt ở đấy. Tổng bí thư Đỗ Mười đi qua đấy trông thấy đã gọi điện phê bình. Sau đấy giám đốc Coca cola Việt Nam gọi điện hỏi tôi: ông ấy mắng thế đúng hay sai? Tôi bảo: mắng là đúng rồi. Cái nhà hát lớn của người ta trang nghiêm đến như vậy mà các anh ở đâu đến bơm một chai to tướng đặt ở đấy. Bản thân các anh cũng không có cái lịch sự thật sự của người phương Tây. Người phương Tây đứng trước nhà hát lớn thì một mẩu thuốc cũng không dám vứt ra. Người phương Tây có giáo dục và văn minh thì không làm những việc kiểu như thế trong nhà hát lớn. Vậy mà bây giờ chúng ta làm tất. Tôi lấy ví dụ như việc biến cái tầng hầm nhà hát lớn trở thành quán ăn chẳng hạn. Nhà hát lớn là nơi người Việt thể hiện trình độ văn minh của mình thì chúng ta lại biến nó thành quán ăn. Vậy tôi hỏi các anh là chúng ta giữ gìn cái bản sắc gì? Cái gì đáng nhớ trong cuộc đời này thì người ta không bao giờ quên được. Có lẽ tôi không bao giờ quên được những năm tháng chiến tranh. Làm sao mà tôi có thể quên được. Cái điều mà tôi nói nhiều nhất, nói một cách say sưa nhất trong bữa cơm với thị trưởng thành phố Sanfrancisco ở Hoa Kỳ là tôi nói về đường Hồ Chí Minh mà tôi tham gia xây dựng. Ông thị trưởng bảo: “ tôi rất muốn ông nói lại câu chuyện này ở câu lạc bộ Commonwelth, một câu lạc bộ cổ xưa nhất trong lịch sử Hoa Kỳ”. Tôi đồng ý. Khi tôi đến nói câu chuyện ở câu lạc bộ Commonwelth, ông chủ tịch ở câu lạc bộ ấy bảo: “ chỗ mà ông đang đứng là chỗ đứng của các danh nhân, của các nhà chính trị quan trọng nhất thế giới, của các thượng nghị sĩ quan trọng nhất của nền chính trị Hoa Kỳ, cho nên ông phải ý thức được cái vinh dự ấy, ông phải nói với chúng tôi điều A, B, C …”. Tôi cười và trả lời rằng: “ thưa ông chủ tịch, tôi là người nếu xét về phương diện kiến thức lịch sử thì bằng một công dân được đào tạo trung bình ở Hoa Kỳ, vì thế tôi biết cái vinh dự mà tôi được hưởng. Và tôi cũng biết thêm được rằng người Mỹ các ông khi ra câu hỏi thì đã có sẵn câu trả lời, hôm nay tôi sẽ nói những vấn đề mà người Mỹ chưa có kinh nghiệm để đặt câu hỏi”. Khi nói về người Mỹ mất tích, tôi bảo với họ là: “ các ông biết rằng nền văn hóa của chúng tôi là nền văn hóa của người chết, tất cả các dấu hiệu văn hóa quan trọng nhất là liên quan đến người chết và các nhà chính trị của chúng tôi có thể không sợ các ông nhưng họ không thể không sợ cha ông họ được. Họ không dám vi phạm các giới hạn văn hóa để dùng xác chết của lính Mỹ mặc cả chính trị với các ông. Chúng tôi là một dân tộc không chuyên nghiệp, chúng tôi đánh các ông cũng không chuyên nghiệp, cho nên trong chiến tranh chúng tôi không thống kê. Ngay cả người của chúng tôi chúng tôi cũng không thống kê được. Vì thế khi phải đối mặt với các vấn đề có tính chuyên nghiệp ở thời kỳ hậu chiến, chính phủ chúng tôi lúng túng. Và nếu các ông biết rõ rằng họ lúng túng chứ họ không thiếu thiện chí thì các ông tiếp cận vấn đề người Mỹ mất tích ở Việt Nam thuận lợi hơn nhiều”. Tôi phải nói thật với các anh chị là nếu không tự do thì tôi không thể nói được như thế. Lúc bấy giờ lương của tôi là 650 đồng, tạm gọi là lương cấp vụ, nếu nói năng không cẩn thận thì có thể mất lương. Đôi lúc chúng ta cũng phải liều, và nếu như chúng ta cứ nhớ đến bản sắc thì không nói được. Từ lâu lắm rồi tôi là người xem việc giữ gìn bản sắc là một khẩu hiệu không lành mạnh, và có những động cơ không lành mạnh. Người ta chỉ nói thế thôi chứ cũng không ai chỉ ra nội dung cơ bản của bản sắc là gì và mỗi người chỉ ra bẳn sắc một kiểu. Như vậy vô tình việc giữ gìn bản sắc trở thành việc giữ gìn cái đòi hỏi của một người cụ thể, mà như vậy thì nó không còn là bản sắc nữa, bởi vì bản sắc là cái nằm trong máu mỗi người. Người ta nói hòa nhập chứ không hòa tan, nhưng tan thế nào được. Không có cách gì để hòa tan người Việt được, muốn cũng không được. Cứ xem các bài báo của Việt kiều là các anh có thể nhận ra và phân loại được ngay. Văn phong của một anh Việt kiều ở Đức khác hẳn với văn phong của anh Việt Kiều ở quận Cam, văn phong của anh Việt Kiều ở quận Cam khác hẳn với văn phong của anh Việt Kiều ở Washington DC … Họ vẫn nói xấu những người cộng sản nhưng nếu được chụp chung ảnh với những người lãnh đạo cao cấp thì họ vẫn rất sung sướng. Đấy là sự thật. Bản sắc có cả mặt ấy, vì thế, nếu con người cứ xăm xăm để giữ cái bản sắc của mình thì con người sẽ sao nhãng việc phân tích các yếu tố mới và kết nạp nó vào cộng đồng các yếu tố trong miền tinh thần của mình. Con người cần phải cởi mở. Cải cách văn hóa theo định nghiã của tôi là tạo ra một nền văn hóa mở, có năng lực tiếp nhận mọi dấu hiệu văn hóa tích cực.
Ý thứ tư của anh là cải cách chính trị theo tiêu chuẩn phổ biến là gì. Đó là dân chủ hóa xã hội. Trong các quyển sách này cũng như trong nhiều bài viết, nhất là các bài viết về Hồ Chủ Tịch, tôi có nói rằng “dân chủ hóa xã hội Việt Nam là món nợ tinh thần của những người cộng sản đối với dân tộc”. Chúng ta đưa ra khái niệm gọi là thời kỳ quá độ, thậm chí bây giờ người cộng sản Trung Quốc đã nói thẳng ra rằng thời kỳ quá độ ấy là hàng trăm năm. Thời kỳ quá độ là một khái niệm được mô tả bằng một câu nói dân gian ở Việt Nam là: “ngày mai ăn phở không mất tiền”. Nhưng bao giờ mới đến cái ngày mai ấy? Tại sao chúng ta không biến một quá trình như vậy thành quá trình xây dựng và tổ chức nền dân chủ? Chúng ta cùng nhau xác định rằng dân chủ hóa tức là trả lại cho con người cuộc sống tự nhiên của nó, và chính trị là lãnh đạo con người chứ không phải là lãnh đạo một con người, cho nên, phải thừa nhận tính đa dạng của đời sống con người, và phải lãnh đạo để nó trở nên người hơn chứ không phải để nó trở thành loại người mà mình muốn. Đấy là quan điểm của tôi. Tôi không nghĩ rằng dân chủ hóa thì nhân dân sẽ chống Đảng, ngược lại, có khi nhân dân còn công kênh Đảng lên. Nếu người ta biết chắc rằng các anh đang tổ chức và lãnh đạo một tương lai mà ở đó nhân dân tự do thì nhân dân rất sợ các anh bỏ đi. Các anh không tưởng tượng được rằng nếu Đảng làm được như thế thì xã hội rất sợ Đảng bỏ đi. Giữa việc nếu ta đi thì họ níu và việc bắt họ phải chịu đựng ta thì việc nào hơn? Tôi thấy các anh không nên ghép những chữ mà bản chất của nó là những chặng khác nhau hay là những mức độ khác nhau của một khái niệm với nhau, như đa nguyên – đa đảng mà tôi nói lúc trước. Đa nguyên là bản chất của cuộc sống còn đa đảng là đời sống chính trị. Nếu chúng ta chưa có điều kiện để đa đảng thì chúng ta không vì thế mà tiêu diệt đa nguyên. Các anh chị ở Học viện là những tinh hoa của đời sống lý luận, các anh chị còn phân biệt được chứ còn xuống đến ban tuyên huấn của các tỉnh ủy thì rất khó. Tôi cho rằng, bản chất của quá trình cải cách chính trị là dân chủ hóa, và chúng ta phải hiểu rằng dân chủ hóa là một việc phải làm. Vì con người, vì sự phát triển của đất nước chúng ta phải làm, chỉ có điều là chúng ta làm cho khéo để giữ được Đảng. Trong những quyển sách này còn thiếu một điều rất quan trọng mà tôi không nói được, đó là những rủi ro mà Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ gặp phải trong quá trình cải cách chính trị. Chúng tôi không hề có sự bức xúc gì với Đẳng, với nhà nước, với chính phủ, chúng tôi là những người đủ khôn ngoan để trong bất kỳ trạng thái chính trị nào của đất nước chúng tôi cũng tồn tại được, nhưng những người như chúng tôi rất ít. Cái chính là phải làm thế nào để những điều kiện có thể tạo ra sự phát triển như vậy trở nên tương đối phổ biến đối với nhân dân chúng ta.
Vấn đề thứ năm là vấn đề phi chính trị hóa giáo dục. Tôi đã đọc rất nhiều bài viết xung quanh vấn đề này. Rất nhiều người nói do thầy thế này, do sách giáo khoa thế kia. Gần đây anh Trần Hữu Dũng, giáo sư trường đại học Wright State, chủ trang web “ Diễn đàn”, về đây trả lời phỏng vấn của báo chí đã nhận xét rằng: giáo dục Việt Nam loay hoay tìm cách phát minh lại cái bánh xe. Kể cả những nhà giáo dục rất có uy tín cũng vẫn quanh quẩn xung quanh những chi tiết, những chương trình này khác mà quên mất rằng cải cách giáo dục là cuộc cải cách đau đớn nhất mà Đảng ta phải chịu đựng nếu định làm, đó là phi chính trị hóa nhà trường. Nếu không phi chính trị hóa nhà trường thì không thể có được nền giáo dục tiên tiến. Các anh chị biết rằng xét về mặt phân tâm học thì năng lực tiếp nhận của trẻ con vào những lứa tuổi khác nhau thích hợp với những loại kiến thức khác nhau. Tại sao trẻ con Châu Âu nói chuyện triết học, nói chuyện Kant, Hegel … một cách rất nhẹ nhàng? Bởi vì lúc các em chưa kịp có định kiến thì các em tiếp cận một cách vô thức. Và về mặt phương pháp luận nhận thức mà nói thì kẻ nào vào sớm nhất trong miền tiềm thức cuả một con người thì kẻ đó trở thành chủ của bộ não và cái còn lại là sự lựa chọn của chính kẻ đó. Chúng ta để cho trẻ con làm quen sớm với một số khái niệm rất hạn chế, và do đó, trẻ con của chúng ta dù có chương trình tốt đến mấy thì khả năng tiếp cận của chúng cũng rất thấp. Nếu làm toán, học sinh chúng ta làm rất tốt, nhưng suy tưởng toán học thì không tốt. Cho nên, về cơ bản chúng ta không có nhà toán học, nhiều lắm là chỉ có nhà dạy toán. Vì thế phải nói thật với các anh chị là nếu không làm cho các trường đại học, các cơ sở giáo dục tự do hơn đối với chính trị, đối với các tiêu chuẩn bắt buộc phải có về nhận thức mà hiện nay chúng ta đang phổ biến trong xã hội thì phải nói rằng mọi ý đồ, mọi khát vọng về cải cách giáo dục đều là vô ích, và chúng ta có đào tạo được 20.000 tiến sĩ thì cũng không có giáo trị gì. Chúng ta sẽ có những kẻ nói một cách chuẩn hơn về thuật ngữ, chúng ta có thể có một số lực lượng có khả năng diễn đạt một cách trôi chảy cái cũ nhưng để tìm ra cái mới thì rất khó, mà nhiệm vụ của chúng ta là tìm ra cái mới chứ không phải diễn đạt trôi chảy cái cũ. Hiện tượng diễn đạt trôi chảy những cái cũ đã trở thành phong cách của giới tri thức Việt Nam từ hàng trăm, hàng nghìn năm nay. Khi Liên hiệp các Hội khoa học kỹ thuật VN tổ chức tiếp giáo sư Francois Jullien, tôi thấy cơ sở vật chất nghèo nàn, lễ tân không có, tôi rất buồn. Tôi đã mời ông ấy ăn cơm ở một khách sạn rất sang. Tôi nói với ông ấy là: “ Tôi phải nói thật với giáo sư là tôi đang chữa ngượng cho người Việt, bởi vì đáng ra với một người như giáo sư thì Thủ tướng hoặc các nhà lãnh đạo chúng tôi phải tiếp. Nhưng bởi vì các đồng nghiệp của Giáo sư không ý thức được tầm quan trọng của chính người bạn của mình, cho nên làm cho Thủ tướng của chúng tôi không biết ngài. Vì thế tôi đành phải làm việc này để chữa ngượng. Cũng phải nói với các anh chị là càng ngày tôi càng hiểu ra rằng với sự loay hoay của người Việt xung quanh cải cách giáo dục như thế này thì rất khó mà đáp ứng được. Chúng ta có cải cách gì đi nữa, cải cách chính chính trị rất cấp tiến đi chăng nữa, cải cách kinh tế một cách hùng hổ thế nào đi chăng nữa thì với nền giáo dục và đào tạo hiện nay, người Việt không có năng lực tiếp nhận và tiếp ứng với mọi sự phát triển. Tôi là người sử dụng lao động, ở đây chúng tôi không có những người lao động đơn giản, tất cả những người lái xe của chúng tôi đều là cử nhân kinh tế hoặc luật học. Ở đây chúng tôi không cho phép tồn tại những người không tốt nghiệp đại học. có một anh lái xe hỏi tôi rằng: em là lái xe, anh bắt em đi học để làm gì? Tôi hỏi: cậu có vợ, có con không? Cậu có sợ con cậu xấu hổ vì bố nó là một kẻ vô học không? Học và kiếm ăn bằng sự học của mình là hai việc khác nhau. Tất cả lái xe, bảo vệ của chúng tôi đều tốt nghiệp cử nhân luật, kinh tế cả. Tôi động viên họ học với quan điểm là con người càng đến gần học vấn bao nhiều càng dễ phát triển bấy nhiêu. Hôm nọ anh em Vietnamnet có đến đây phỏng vấn tôi về sự khủng hoảng của nền giáo dục VN, tôi trả lời rằng nền giáo dục VN không khủng hoảng. Đây là cuộc khủng hoảng của những người có trách nhiệm tổ chức ra nền giáo dục chứ không phải khủng hoảng nền giáo dục. Xã hội vẫn lặng lẽ bổ sung những sự thiếu hụt mà những người có trách nhiệm tổ chức ra nền giáo dục không làm được. Người Việt không để cho nền giáo dục của mình khủng hoảng.
Ông Phạm Huy Đức: Tôi thấy các cuốn sách của anh có hai cảm hứng chủ đạo, cảm hứng thứ nhất là cảm hứng tự do, cảm hứng thứ hai là cảm hứng dân chủ, những cái đó thì giới trí thức VN đang thiếu, anh đã thổi hồn vào trong đời sống chung. Tôi thấy cách diễn đạt của anh cũng lạ, khiến cho người đọc tò mò, đọc rồi có thể có rất nhiều chia sẻ. Cách hiểu có thể khác nhau nhưng bản chất thì không khác nhau. Ví dụ, anh đồng nhất bản sắc của dân tộc với cái yếu kém của dân tộc, cái đấy nhiều người đã nói. Nhưng tôi cho rằng không nên đồng nhất bản sắc chỉ là những cái xấu. Nếu như anh đã tôn trọng sự đa dạng tinh thần thì anh cũng phải thừa nhận có các sắc thái văn hóa có nhấn mạnh đến việc con người phải biết tự bảo vệ mình và giữ được cái trạng thái của mình trong xu thế hội nhập. Tất nhiên cái bản sắc không loại trừ cái hội nhập, cái đổi mới và anh phải đổi mới thì anh mới giữ được bản sắc. Những trò chơi ngôn ngữ đôi khi làm cho người ta hiểu lầm nhau, nhưng tôi tin rằng về bản chất thì anh cũng không phê phán quan điểm như vậy.
Ông Nguyễn Trần Bạt: Tôi không đồng nhất bản sắc với những cái xấu, bởi vì tôi không xem là có khái niệm bản sắc, và tôi cũng không hề phê phán quan điểm đa dạng văn hóa như anh nói. Tôi cho rằng con người thì phải đa dạng, đa dạng về quan điểm, đa dạng về tư tưởng, đa dạng về phong cách. Ngôn ngữ cũng thể hiện phong cách. Năm 1948 khi anh Nguyễn Đình Thi bắt đầu viết tập Những bài ca Hắc Hải thì anh Tố Hữu đưa ra phê phán là không có tính nhân dân. Nói thật là khi nghiên cứu những chuyện như vậy thì tôi ngạc nhiên vì một nhà lãnh đạo cao cấp như thế đáng ra phải đứng trên những sự khác biệt như vậy để khuyến khích. Con trai tôi học ở nước ngoài được 10 năm, khi về nước nó vớ được tập thơ của anh Trần Dần, nó đọc xong thì hỏi tôi: “ những bài này ông ấy viết từ bao giờ hả bố?” Tôi trả lời: “ từ năm 1955 con ạ”. Nó bảo: “ một đất nước có một người đã viết từ năm 1955 những tác phẩm thế này mà không nổi tiếng thế giới thì rất đáng tủi thân. Cái này Châu Âu mới bắt đầu xem là đại trà”. Tôi không hề dị ứng với sự khác biệt. Có lần tôi đến Hannover để dự một hội thảo quốc tế, sau đó chúng tôi đi xe buýt để lên Berlin . Tôi ngồi trên xe buýt và ngủ, đến lúc tôi nghe thấy những tiếng ô tô kêu to hơn thì tôi hỏi cậu thư ký bên cạnh: “ đến Đông Đức rồi phải không?” Cậu ấy bảo: “ Đúng rồi anh ạ”. Bản sắc là không thể trộn được. Đến bây giờ người ta vẫn không trộn được Đông Đức và Tây Đức mặc dù đã tiêu tốn hàng nghìn tỷ Deutsche Mark. Có những người nói rằng chủ nghĩa cộng sản không để lại đóng góp văn hóa nào, nhưng họ nhầm to. Tôi đang định viết một quyển sách về nền văn hóa vô sản và nguyên một chữ “ đồng chí” thôi đã là một đóng góp của nền văn hóa vô sản mà chúng ta phải phân tích một cách rất cẩn thận. Tôi là người thừa nhận sự khác biệt và phải nói rằng đau khổ lớn nhất của con người là sự giống nhau.
Ông Bùi Đình Phong: Tôi đồng ý với những vấn đề mà anh trình bày. Tôi chỉ muốn hỏi theo dự đoán của anh thì đến bao giờ VN mới có thể có những điều như anh nói?
Ông Nguyễn Trần Bạt: Nếu khóa XI này Đảng thừa nhận và bắt đầu tổ chức quá trình cải cách chính trị theo hướng dân chủ hóa xã hội thì sau 10-15 năm nữa, VN sẽ phát triển một cách không ai ngăn chặn được. Và phải nói rằng, chúng ta ở cạnh nước CHND Trung Hoa, cách duy nhất để chúng ta đối phó với sự lấn át của một nước lớn là chúng ta phải trở thành một quốc gia phát triển. Mà không phải chỉ có chúng ta mới có tâm trạng ấy. Nếu các anh chị mà nói chuyện với một người Newzeland thì sẽ thấy ngay rằng anh ta rất ghét nước Úc. Tất cả những kẻ bé đều ghét kẻ lớn ở bên cạnh mình. Tâm lý đó là hoàn toàn phổ biến. Nước bé ở cạnh nước lớn, nước nghèo ở cạnh nước giàu bao giờ cũng có tâm lý ấy. Tôi rất sung sướng thấy rằng người Trung Quốc tỏ ra rất khiêm tốn đối với người Nhật Bản. Ông Fukuda vừa mất chức, người phát ngôn Bộ ngoại giao Trung Hoa đã phải lập tức lên ti vi ngay để nói rằng: chúng tôi hy vọng rằng sự từ chức của thủ tướng Fukuda không ảnh hưởng gì đến quan hệ Trung – Nhật. Tôi kể cho các anh chị nghe câu chuyện rất thú vị, năm 1987 tôi có gặp ông chủ tịch tập đoàn Kolon của Hàn Quốc, lúc ấy ông ấy vừa mới trúng cử nghị sĩ. Khi tôi ăn cơm với ông ấy ở khách sạn Caraven Sài Gòn, ông ấy bảo: với tư cách là chủ tịch Kolon thì tháng nào tôi cũng đến đây một lần, nhưng bây giờ tôi muốn nhờ ông bố trí cho tôi một lời mời của bất kỳ một nghị sĩ nào của VN, mời tôi đến thăm với tư cách là một nghị sĩ. Sang năm tôi là chủ tịch quốc hội Hàn Quốc, tôi đưa ra một lời hứa với ông để ông thuyết phục các nghị sĩ VN là ngay lập tức tôi sẽ bình thường hóa quan hệ với VN. Tôi mất hai tháng lặn lội gặp tất cả các nghị sĩ VN, từ giáo sư này đến giáo sư khác, tất cả đều từ chối. Tôi cực kỳ đau khổ. Hai năm sau đó Hàn Quốc bình thường hóa với Trung Quốc, và hai năm sau nữa Hàn Quốc mới bình thường hóa với VN. Đáng ra chúng ta có thể làm việc ấy trước TQ hai năm. Tôi kể câu chuyện đó để nói với các anh rằng, đôi lúc sự thiếu tự do kìm hãm các cơ hội quan trọng của đất nước.
Ông Phạm Huy Đức: Hiện nay mình đang đào tạo ra những con người của cơ chế chứ chưa phải là các chính khách.
Ông Nguyễn Trần Bạt: Để minh họa thêm về điều mà anh nói, tôi xin kể một câu chuyện nữa. Năm 1989 tôi đến Úc, tôi rất nhiều bạn bè ở Úc, họ bố trí cho tôi tiếp xúc với một số nhà chính trị quan trọng ở Úc, trong đó có một người là thượng nghị sĩ Kim Beazley, chủ tịch Công Đảng Úc, và lúc bấy giờ Công Đảng đang cầm quyền. Đúng giờ hẹn tôi đến phòng ông ấy. Ông ấy mời tôi ngồi và bảo: “ Với tư cách là một thương nhân thì ông gặp tôi có chuyện gì?” Tôi bảo: “ Tôi được giới thiệu rằng thượng nghị sĩ là một nhà chính trị thông minh nhất nước Úc. Tôi cũng nói chuyện với nhiều nhà chính trị của Úc, nhưng tôi dành những điều tôi sắp nói để nói với ông. Nếu ông thích nghe thì tôi nói, còn nếu không thì tôi xin lỗi, tôi về”. Ông ấy bảo: “ Ông có 15 phút”. Tôi nói rằng: “ Thế giới trong thời đại toàn cầu đang co cụm lại từng khu vực, nước Úc với tư cách là một quốc gia Châu Âu về mặt chủng tộc, là một quốc gia Châu Á về mặt địa lý, vậy nước Úc ở đâu trong xu thế khu vực hóa ấy?” Ông ấy sáng mắt lên và bảo: “ Xin lỗi ông, chuyện này quan trọng lắm, tôi không nghe một mình được”. Và thê là ông ấy kéo tôi sang một phòng khách lớn và mời 1/3 nội các đến. Tôi đã nói chuyện với 1/3 nội các, trong đó có Bộ trưởng quốc phòng, Bộ trưởng tài chính, Bộ trưởng giáo dục … đủ hết và cả mười mấy thượng nghị sĩ nữa. Cuộc nói chuyện ấy kéo dài hơn 4 tiếng đồng hồ. Và sau đó tôi đã kéo được ngân hàng ANZ vào đây, và tôi cũng là người tuyển chị Vi Lê ( sau này trở thành vợ của đại sứ Mỹ Pete Peterson) vào VN theo ủy quyền của chủ tịch ngân hàng ANZ. Phải nói thật với các anh rằng, tự do đem lại cho con người những phút thăng hoa khủng khiếp và nó tạo ra những sáng tạo mà ở những trạng thái bình thường chúng ta không làm được. Cho nên, với tư cách là mọt người viết, một người suy ngẫm, tôi không dám nói là một người viết hàn lâm chuyên nghiệp hay một người suy ngẫm chuyên nghiệp, tôi có một câu là: “ tài năng là một thứ mà người sở hữu nó là người cuối cùng biết về nó”. Có những lúc vì yêu nước, vì cái nọ cái kia, bỗng nhiên mình liều mạng. Bộ trưởng quốc phòng Úc đã hỏi tôi thế này: “ bây giờ chúng tôi phải hội nhập vào Châu Á, vào Đông Nam Á, theo ông khu vực nào của Đông Nam Á thuận lợi cho chúng tôi?” Tôi trả lời: “ Đông Dương. Đông Dương là khâu yếu nhất trong quá trình hội nhập. Ví dụ tôi thấy tướng Louis Loridon là tư lệnh quân Untac ở Phnom Penh , tại sao tư lệnh Phnom Penh không phải là người Úc?” Hai tháng sau họ đã vận động thay tướng Louis Loridon bằng tướng John Sanderson. Đông Dương là điểm mà người Úc phải tập kết đến đấy. Tôi với một thượng nghị sĩ Úc đồng thời là Chủ tịch viện hàn lâm Úc là ông Narole Rale đã tranh luận với nhau ba buổi. Ông ấy nói: “nếu người Việt hy vọng người Úc trở thành cầu nối của mình với Hoa Kỳ là người Việt ảo tưởng và sai”. Tôi bảo rằng: “nếu ngài nghĩ chúng tôi sai thì ngài sai. Nước Úc là một quốc gia về mặt tâm lý được hình thành giống với quy luật của người Việt. Chúng ta đều đi tìm tự do. Các ngài đi tìm tự do của mình bằng những nhân tố có tính chất bị lưu đày cách đây 200 năm. Còn chúng tôi là kẻ đi tìm đất nước của mình trong xu thế săn đuổi chạy xuống phương Nam . Về mặt tâm lý thì hai dân tộc giống nhau. Tôi nghĩ rằng các ngài chơi với chúng tôi dễ hơn chơi với bất kỳ nước nào ở Đông Nam Á, và cái giá phải trả cho việc các ngài chơi với VN rẻ hơn nhiều so với việc các ngài chơi với người Indonesia , người Papua Ne Guinea”. Đến khi Công đảng sụp đổ do tham nhũng thì đảng bảo thủ lên thay. Đảng bảo thủ cử một quan chức cỡ thứ trưởng sang VN gặp tôi chỉ để nói một câu: “Chính phủ công đảng cam kết với VN rất nhiều thứ, chúng tôi không đủ tiền để thỏa mãn tất cả những yêu cầu này nhưng chúng tôi ý thức rất rõ rằng lời khuyên của ông đối với những người tiền bối của chúng tôi là phải duy trì mối quan hệ tốt với VN. Vậy theo ông nên cắt đi cái gì và giữ lại cái gì để vẫn giữ được quan hệ tốt với VN?”. Tôi trả lời: “các ông cắt đi cái gì thì là tùy các ông, nhưng theo tôi, các ông phải giữ được hai thứ, đó là trợ giúp giáo dục và dự án cầu Mỹ Thuận. Bởi vì hơn 100 năm người Pháp không làm nổi, 50 năm người Mỹ không làm nổi, nếu các ông làm được thì đấy là biểu tượng thiện chí của các ông ở những vùng đất nhạy cảm như chúng tôi. Khi người ta khánh thành cây cầu ấy, Đại sứ Úc hỏi tôi: “ Ban tổ chức có mời ông không?”. Tôi bảo không. Như vậy cái dự án ấy có được bằng một lời khuyên, đó là lời khuyên của tôi. Các anh thử nghĩ xem, với tư cách một công dân bình thường mà nếu tuân thủ những tiêu chí chính trị được áp đặt một cách lâu dài như vậy ở VN thì làm sao tôi có thể nói những điều có ích cho đất nước được? Khi các anh đã nói đến tự do chính trị mà không nói một cách đầy đủ thì sẽ làm người ta sợ. Hầu hết chúng ta đều sợ những khái niệm nhạy cảm, và sợ những khái niệm ấy chính là biểu hiện của sự nhát nhúa bộ máy trí tuệ của dân tộc chúng ta. Trong bản thảo “ Tự do” tôi có một chương phân tích về miền tinh thần của con người, có lẽ trong lịch sử nghiên cứu về tự do người ta chưa phân tích tự do theo kiểu như thế này. Đó là chương nói về “ Không gian tinh thần”. Ở đấy tôi chia miền tinh thần con người thành ba tầng: tầng thứ nhất là tầng thực dụng, tầng thứ hai là tầng trí tuệ, tầng thứ ba là tầng siêu tinh thần tức là tầng lý tưởng. Ở trong đó tôi định nghĩa tự do bên trong của một con người chính là sự dịch chuyển một cách thoải mái trên ba miền này. Ví dụ ngày xưa đàn ông là không rửa bát, đàn ông rửa bát là hàng xóm chê còn vợ thì thấy áy náy, hay không ai có thể tưởng tượng nổi một giáo sư lại đi đạp xích lô để kiếm thêm. Đấy là thiếu tự do. Tôi quan niệm rằng, ngay lập tức con người có thể tự do dịch chuyển sự chú ý của mình, năng lực của mình đến miền nào mà ở đấy người ta thấy các đòi hỏi được thỏa mãn. Tôi là nhà kinh doanh, nhưng tôi làm khoa học, tôi chứng minh rằng tôi tự do trong chính bản thân mình. Hàng ngày tôi cũng phải mặc cả, cũng phải duyệt chi tiêu, cũng phải căn vặn cấp dưới của mình tại sao lại lãng phí, tại sao lại chi những khoản không cần thiết. Những việc ấy không giống như việc nghe nhạc Beethoven hay Mozart, nó không lãng mạn gì cả nhưng tôi buộc phải làm. Tuy nhiên, ngay lập tức đến buổi ăn cơm trưa là tôi nói chuyện với anh em về Hayek. Đấy là tự do. Tự do cho phép mình hiện hình thành con người này, thành con người kia để phù hợp với đòi hỏi hàng ngày của đời sống. Nếu chưa có cái tự do thể chế mà tôi gọi là điều kiện tự do khách quan thì chúng ta phải bảo tồn cái tự do bên trong của mình.
Ông Phạm Ngọc Quang: Thưa anh Bạt và các anh chị em trong Học viện. Chúng ta đã nghe anh Bạt trình bày một số ý trong những ý tưởng của anh ấy liên quan đến một số vấn đề hết sức nhạy cảm với một tinh thần hết sức cởi mở. Tôi tin rằng đây chưa phải là tất cả và anh Bạt còn nhiều điểm có thể trình bày nữa. Chúng tôi hy vọng sẽ có những buổi khác để trao đổi thêm với các anh. Mong anh tích cực giúp đỡ chúng tôi. Xin thay mặt tất cả anh em trong học viện chúng tôi xin cảm ơn các anh đã bố trí buổi gặp gỡ này. 
Ông Nguyễn Trần Bạt: Thưa các anh chị. Tôi hết sức cảm động vì được tiếp xúc với những nhà nghiên cứu chuyên nghiệp của Đảng, phải nói rằng đối với tôi đó là một vinh dự tinh thần. Tôi rất sẵn sàng cộng tác với tất cả các anh. Chúng tôi được biết rằng việc các anh đến đây có sự phê chuẩn của giáo sư Lê Hữu Nghĩa, thay mặt anh em trong công ty, chúng tôi nhờ anh chuyển lời cảm ơn sự tín nhiệm và sự cởi mở của giáo sư Lê Hữu Nghĩa và Ban lãnh đạo Học viện. Tôi nghĩ rằng xã hội có nghĩa vụ phục vụ các anh trong những chuyện như thế này. Lý do rất đơn giản là các anh mà không phát triển thì trí khôn của hệ thống chính trị cũng không phát triển. Mà xã hội thì sống bằng trí khôn của hệ thống chính trị.
Ông Phạm Ngọc Quang: Cảm ơn anh đã gửi gắm sự tin tưởng của anh với chúng tôi. Chúng tôi sẽ có những nỗ lực để có thể đáp ứng được phần nào đó. Nhưng để đạt được điều đó thì phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa chúng tôi và những người làm thực tiễn mà anh làm một trong những người như vậy.

Nguồn: Sưu tầm

Tọa đàm giữa ông Nguyễn Trần Bạt và các cán bộ nghiên cứu (Phần 2)



Ví dụ chính sách ảnh hưởng đến 5 người thì người ra chính sách có thể làm mà không cần hỏi ý kiến. Nhưng nếu ảnh hưởng đến 500 người tức là nó bắt đầu tác động đến xã hội một cách thật sự, và đến 5 triệu người thì buộc phải thẩm định ở mức cao nhất của đời sống chính trị. Nhưng hình như chúng ta không có những nguyên tắc như thế. 
Sau những cuộc gặp gỡ và va chạm với rất nhiều vấn đề, nhất là từ năm 1997 tôi bắt đầu hình dung ra việc viết cuốn Cải cách và sự Phát triển. Tôi đến rất nhiều nước để nghiên cứu cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1997, đặc biệt ở Châu Á. Tôi có dẫn anh Bùi Xuân Khu, bây giờ là Thứ trưởng Bộ công thương, lúc bấy giờ là Tổng giám đốc của Vinatex. Tôi nói rằng “tôi có một chuyến đi đến Hàn Quốc do lời mời của sứ quán Hàn Quốc, ông có đi với tôi không?”. Ông ấy đồng ý. Tôi hỏi: “Thế ông đã đi Hàn Quốc bao giờ chưa?”. Ông ấy bảo “Tôi đi ba lần rồi”. “Thế ông có gặp gỡ ai không?”. “Không, chỉ lang thang thôi”. Do chúng tôi được tổ chức một cách cẩn thận nên dịp đó chúng tôi gặp rất nhiều người, trong đó có Thứ trưởng thường trực Bộ ngoại giao, Bộ thương mại, Thứ trưởng thường trực của Bộ kinh tế, Chủ tịch Ngân hàng Xuất Nhập Khẩu, và Chủ tịch hãng thông tấn Yonhap, nơi cung cấp hầu hết các phát ngôn, quan điểm của chính phủ Hàn Quốc. Đến đó, tôi nghiên cứu tại sao nền kinh tế của họ khủng hoảng.
Tôi nhớ hồi đó, tôi có lên ti vi tham gia toạ đàm bàn tròn cho mục Xây dựng Đảng do anh Đậu Ngọc Đảm làm, chúng tôi thảo luận về cuộc khủng hoảng kinh tế. Trong cuộc toạ đàm ấy có rất nhiều anh em, trong đó có cả anh Đào Xuân Sâm. Anh Sâm nói rằng: “Các đồng chí ơi! Tại sao xung quanh người ta sốt lên cả rồi mà mình lại không sốt lên được?”. Vào thời điểm ấy rất nhiều nhà nghiên cứu của chúng ta rất thắc mắc rằng tại sao một đất nước như thế này mà không có khả năng sốt lên được, tức là không có khả năng khủng hoảng. Nhiều khi chúng ta tự hào rằng chúng ta không chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng mà không phát hiện ra rằng đáng lẽ chúng ta phải đau khổ khi thấy nền kinh tế của chúng ta vô cảm với sự phát triển của thế giới. Bằng những ấn tượng như vậy, tôi viết quyển Cải cách và sự Phát triển. Trong quyển sách này, tôi có nói đến các cuộc cải cách cần thiết và cơ bản, đó là cải cách kinh tế, chính trị, văn hoá và giáo dục. Trong đó tôi xem cuộc cải cách giáo dục là cuộc cải cách tổng hợp thể hiện toàn bộ sự đổi mới về các quan điểm chính trị, kinh tế, văn hoá. Phải nói rằng chỉ riêng nghiên cứu cuộc cải cách giáo dục thôi, nếu có thời gian viết về nó thì nó trở thành một công trình lớn. Trong quyển sách này, ngoài việc liệt kê những cuộc cải cách cơ bản mà bất kỳ một thể chế nào cũng phải làm, chúng tôi còn nghiên cứu những điều kiện cơ bản của từng cuộc cải cách và nghiên cứu cả việc phải kết hợp một cách đồng bộ các cuộc cải cách như thế nào. Trong đó chúng tôi đưa ra một khái niệm là “độ thấm của các chính sách vĩ mô”. Chính việc chúng ta không làm rõ khái niệm độ thấm của các chính sách vĩ mô vào đời sống xã hội cho nên nhiều chính sách của chúng ta khi ban hành thiếu tính nhân dân. Ví dụ, cấm hàng rong là thiếu tính nhân dân. Anh đưa ra cái anh muốn nhưng anh không hiểu cuộc sống đã muốn cái anh muốn chưa. Cho nên phải nói rằng, một loạt các chính sách của chúng ta trong giai đoạn gần đây là thiếu tính nhân dân, thiếu sự chiếu cố thoả đáng đến các trạng thái thực của đời sống. Tôi có đưa ra một số bài báo là cần phải có một quy trình bắt buộc đối với việc hoạch định chính sách. Ví dụ chính sách ảnh hưởng đến 5 người thì người ra chính sách có thể làm mà không cần hỏi ý kiến. Nhưng nếu ảnh hưởng đến 500 người tức là nó bắt đầu tác động đến xã hội một cách thật sự, và đến 5 triệu người thì buộc phải thẩm định ở mức cao nhất của đời sống chính trị. Nhưng hình như chúng ta không có những nguyên tắc như thế. Ví dụ chuyện xe ba bánh, xe tự chế, với tư cách là một người vẫn còn tiếp tục sống trong đời sống thông thường, tôi rùng mình về sự phiêu lưu chính trị như vậy. Các anh nghiên cứu, học tập gương Bác Hồ vĩ đại để duy trì, dùng lịch sử để duy trì mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân, nhưng những chính sách như vậy đi ngược lại hoàn toàn, gây những phản ứng ngược lại hoàn toàn với mong muốn như vậy. Phải nói rằng sự coi thường nhân dân, sự không đếm xỉa đến chất lượng nhân dân của luật pháp và chính sách đã bắt đầu trở thành một tai hoạ của đời sống chính trị. Rất đáng tiếc không ai nhận thức được chuyện này. Có nhiều nhà lãnh đạo cấp cao vẫn nói rằng chúng ta phải nuôi dân, chúng ta phải lo cho dân… Tôi đã nói với Đài truyền hình Việt Nam là tôi đề nghị các anh đưa ra một yêu cầu là không nói chữ “dân”. Nhân dân không phải là cấp dưới của Nhà nước. Bản chất của nền dân chủ là người dân làm chủ thể chế của mình chứ không phải thể chế cai quản người dân. Hay nói về quân đội của chúng ta chẳng hạn, tôi có nói với một số anh cựu chiến binh là quân đội nhân dân Việt Nam là thành phẩm của quá trình liên doanh giữa Đảng Cộng Sản Việt Nam và nhân dân. Nếu quân đội chỉ bảo vệ Đảng (rất nhiều đồng chí vô tình nói như thế mặc dù trong đầu có thể không nghĩ thế), thì tự nhiên khi xem, khi nghe, người ta sẽ hiểu là hoá ra các ông ấy làm như thế là vì các ông ấy. Trong cuốn Văn hoá và Con người của tôi có phần văn hoá chính trị, đấy là tôi muốn nói rằng cần phải chấn chỉnh lại hệ thống ngôn ngữ, không được để nó diễn ra một cách ngẫu nhiên, nó tạo ra một quá trình tuyên truyền ngược lại với các nguyên lý căn bản nhất của đời sống chính trị mà chúng ta tôn thời. Trong tất cả những cuốn sách này tôi có nói về chuyện ấy. Chuyện ấy có thể không phù hợp lắm với thẩm mỹ chính trị của nhiều đồng chí hiện nay nhưng tôi nói rằng những giá trị như vậy, những khẳng định như vậy không thể chối bỏ được. Sớm hay muộn gì thì các nhà lãnh đạo của chúng ta cũng phải tiếp cận với kỷ luật của đời sống, mà kỷ luật quan trọng nhất của đời sống là sự đến gần các chân lý của nó.
Đây là lần đầu tiên gặp các anh các chị, nên tôi dành thời gian mở đầu câu chuỵên bằng cách tự giới thiệu mình. Anh Quang có đề nghị tôi nói sâu về cải cách chính trị. Tôi thưa với các anh các chị là sách đã có rồi, nếu mọi người chưa có thì tôi xin biếu, hoặc là đã đọc rồi thì các anh hỏi, tôi trả lời. Tôi không thích sự độc thoại. Tôi sẵn sàng trả lời những chất vấn của các anh các chị, những cũng phải nói trước là tôi là người không tranh luận. Nếu các anh các chị bảo tôi sai thì tôi sẽ im, lý do rất đơn giản là tôi là người tôn trọng tính đa dạng của đời sống. Nguyên lý tư tưởng của tôi là tôn trọng sự đa dạng tự nhiên, bởi vì nó là bản chất của cuộc sống. Cũng như lúc đầu tôi nói là không thể ghép đa nguyên và đa đảng được. Chúng ta có thể ngăn chặn sự đa đảng nhưng chúng ta không tiêu diệt sự đa nguyên được bởi vì đa nguyên là bản chất của cuộc sống. Về mặt chính trị chúng ta không cho phép đa đảng, hay chúng ta chưa được thành lập đảng chính trị vào giai đoạn thế kỷ thứ XXIII chẳng hạn, đó là quyền của những người cầm quyền. Khi anh vẫn cầm quyền tức là anh vẫn có quyền. Nhưng anh không thể nói rằng: vườn nhà các cậu chỉ trồng xà lách không thôi, trồng rau muống không thôi, không được trồng rau nào khác. Trong bài viết của tôi gửi giáo sư Phạm Ngọc Quang theo yêu cầu của giáo sư, tôi đã nói rõ điều ấy. Tôi dừng lại ở đây. Rất muốn các anh các chị có gì thắc mắc cần phải hỏi thêm tôi, tôi sẽ trả lời. Sức mạnh của tôi là trả lời nhanh câu hỏi của các anh các chị. Chỗ nào tôi không biết thì tôi sẽ nói là tôi không biết. Tôi không phải là một nhà hàn lâm chuyên nghiệp, tôi cũng không định trở thành một nhà hàn lâm chuyên nghiệp, nhưng tôi muốn trở thành một con người biết mọi thứ cần thiết cho cuộc sống. Rất có thể quan đểm của tôi không làm vừa lòng một số anh chị ngồi đây, hoặc là làm bất tiện chính trị cho một số anh chị ngồi đây. Với tư cách là vệ sỹ lý luận của Đảng, nghe thấy tôi nói ngang ngang như thế mà không chất vấn thì bất tiện cho các anh các chị. Cũng có thể có một số anh chị đồng ý với tôi mà không nói ra được. Hoặc cũng có anh cho rằng anh này không được, phải đấu tranh với nó. Cho nên, tôi phải nói trước là tôi không tranh luận, vì tôi là người tôn trọng tính đa dạng của đời sống tinh thần. Trong bài viết gửi giáo sư Phạm Ngọc Quang, đoạn hay nhất là đoạn tôi nói về trí thức. Tôi xin đọc lại để các anh các chị hiểu rõ quan điểm của tôi và để dễ chất vấn tôi hơn:
“… Hiện nay, bằng rất nhiều hoạt động, Đảng luôn thể hiện sự quan tâm đến đội ngũ trí thức, muốn xây dựng đội ngũ trí thức, đó là dấu hiệu tốt. Tuy nhiên, phương pháp hay động cơ của việc này cần phải được xem xét và cân nhắc một cách rất cẩn thận. Vấn đề đặt ra là Đảng muốn gì ở trí thức. Nếu Đảng muốn có một đội ngũ trí trức của mình, phục vụ cho mình thì chỉ cần xây dựng đội ngũ trí thức theo cách thức hiện nay là đủ, còn nếu Đảng muốn có một đội ngũ trí thức để lý giải những hiện tượng chính trị, xã hội để có thể hoạch định những chính sách tốt thì cần phải có một đội ngũ trí thức theo cách khác. Bộ chính trị vừa qua có ra quyết định xây dựng một nghị quyết về vấn đề xây dựng đội ngũ trí thức. Trong quá khứ, hầu hết các Đảng Cộng Sản trên thế giới, đều đã từng làm việc này. Họ xây dựng nền văn hoá để kiểm soát xã hội về mặt thái độ chính trị, xây dựng đội ngũ công nhân để làm chỗ dựa, làm lực lượng chính trị, xây dựng đội ngũ trí thức làm trí khôn chính trị, tức là những người cầm quyền luôn muốn biến xã hội trở thành lực lượng của mình, công cụ của mình mà quên mất rằng làm như vậy sẽ khiến cho xã hội không còn tự do nữa. Để xây dựng đội ngũ trí thức thì vấn đề đầu tiên đặt ra cho những người thực hiện là phải xây dựng tiêu chuẩn để nhận diện trí thức, nhưng đặt ra vấn đề xây dựng tiêu chuẩn để nhận diện trí thức là rất chủ quan, bởi vì, trong một xã hội cơ hội thì trí thức là kẻ nhạy cảm nhất và đủ năng lực để biến hình, biến màu trở thành kẻ cơ hội sớm nhất và giỏi nhất. Những người cầm quyền nếu không đủ tinh khôn, không đủ kinh nghiệm thì sẽ rất dễ mắc phải sai lầm là nhận dạng trí thức dưới hình thức của những kẻ cơ hội. Vậy thì nhận dạng để làm gì? Có những lúc chúng ta nói rằng trí thức đã bắt đầu trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp thông qua lý thuyết về nền kinh tế trí thức là lập tức chúng ta có những sự biến hình rất vĩ đại xảy ra trên quy mô xã hội, đó là sự xuất hiện của hàng chục nghìn tiến sỹ giáo sư kém chất lượng. Như thế tức là trí thức là những kẻ biến hình. Nhà cầm quyền càng xây dựng hệ tiêu chuẩn và càng công bố, càng tuyên truyền về nó thì xã hội càng bị lôi kéo theo những tiêu chuẩn phiến diện, vì nó chỉ được xác nhận bởi những người có quyền lực. Nếu làm như vậy thì xã hội sẽ không những có thêm trí thức mà những trí thức sẵn có cũng trở nên biến dạng. Đấy là một nguy cơ.
Vậy chúng ta phải làm gì để nhận dạng những tri thức đích thực? Tôi cho rằng vấn đề này thực ra không khó. Trí thức chân chính luôn luôn đối lập một cách tự nhiên đối với nhà cầm quyền, cho nên, thay vì xây dựng các tiêu chuẩn nhận diện thì chúng ta chỉ cần nhận diện trí thức bằng thuộc tính tự nhiên cơ bản của lực lượng này, đó là “tính đối lập”. Những ai không có năng lực đối lập thì dường như rất khó để trở thành trí thức. Những ai không có phản ứng về sự vô lý, về sự thiếu nhân đạo, về sự thiêú hiểu biết thì kẻ đó dứt khoát không phải là trí thức. Trí thức là người có năng lực phản xạ một cách tự nhiên trước những sự vô lý của xã hội mà đặc trưng là nhà cầm quyền. Cho nên, tiêu chuẩn để phát hiện một cách chính xác và nhanh nhất người trí thức chính là tính đối lập và các phản ứng của họ đối với nhà cầm quyền. Và tiêu chuẩn để phân biệt sự khác nhau giữa các cá thể trí thức, giữa các nhóm trí thức là mức độ đối lập của nó đối với nhà cầm quyền. Trạng thái đối lập cực đoan là trạng thái đối kháng. Trạng thái đối lập khôn ngoan, phải chăng và tích cực là trạng thái không đối kháng. Ở mọi thời đại, tất cả những trí thức vĩ đại đều là những người đối lập tích cực. Nghiên cứu tính đối lập của trí thức, tôi thấy rằng có 4 điểm cơ bản: Thứ nhất, trí thức đối lập với nhau để hình thành một trong những sinh hoạt phổ biến tạo ra sự sáng tạo và lựa chọn, đó là tranh luận. Thứ hai, trí thức đối lập với nhà cầm quyền để tạo ra một sinh hoạt rất phổ biến, đó là sinh hoạt phản biện. Thứ ba, tri thức đối lập với những yếu tố văn hoá xâm nhập từ bên ngoài để tạo ra năng lực chọn lọc của xã hội. Và cuối cùng, trí thức phải đối lập với quá khứ để tạo ra động lực của sự phát triển và năng lực phỏng đoán tương lai…”
Liên quan đến vấn đề trí thức, anh Hiên có đến làm việc với tôi để góp ý cho nghị quyết về trí thức. Tôi đã thảo luận với anh Hiên về vấn đề này một cách khá gay gắt. Tôi nói rằng không có tiêu chuẩn nhận diện, nếu có đặt ra tiêu chuẩn nhận diện thì lực lượng đi nhận diện cũng rất khó thực hiện. Rất nhiều nỗi oan ức ngay cả trong những trí thức quan trọng của Đảng, ngay trong tâm lý các anh cũng có điều ấy. Tôi cho rằng trí thức là những người có trách nhiệm, người có trách nhiệm bao giờ cũng đối lập với mọi sự sai trái của cuộc sống, mà sự sai trái dễ nhận thấy nhất là sự sai trái của nhà cầm quyền, cho nên nhà chính trị phải rèn luyện để đủ năng lực đối thoại với kẻ đối lập với mình. Trong một xã hội mà nhà chính trị không đủ năng lực để đối thoại với người đối lập với mình về mặt hiểu biết thì rất khó để xã hội ấy trở thành một xã hội phát triển. Đấy là những luận điểm cơ bản của tôi nằm trong quyển sách này và nằm trong bài viết mà tôi gửi cho giáo sư Phạm Ngọc Quang.
Ông Phạm Ngọc Quang: Thay mặt cho anh em ở đây, cảm ơn anh Bạt đã có một số ý kiến tâm huyết và trao đổi với anh em. Thực ra tôi được quen anh Bạt cách đây có một tuần thôi, nhân dịp tôi mời anh Bạt đến để trao đổi với chúng ta, nhưng anh Bạt đề nghị tôi ra ngoài này gặp anh để trao đổi. Tôi biết anh Bạt trước đó là qua sách,cuốn Cải cách và phát triển, xuất bản quý 4 năm 2005 thì tháng 12 tôi mua quyển sách này. Sau đó quyển Văn hoá tôi mua năm 2006 và quen anh Bạt qua môt số bài viết trên mạng internet. Trong quá trình làm ở Hội đồng Lý luận Trung ương, tôi được giao chuẩn bị một công trình lớn của Hội đồng mà đã xuất bản dày trên 500 trang, đầu đề cuốn sách ấy là “Đổi mới và phát triển Việt Nam, một số lý luận thực tiễn”. Khi hình thành bản thảo ấy, tôi đã đọc cuốn sách này của anh và nói thật với anh là tôi đã đưa một số vấn đề của anh vào trong tác phẩm ấy để phê phán. Sau đó, khi đưa ra một hội đồng để xem xét thì thấy những ý đó cần phải được nhgiên cứu tiếp. Do vậy tôi đã rút những ý đó ra khỏi cuốn sách đó. Cuốn sách ấy được xuất bản từ 2006 mà không có đoạn phê phán về một số ý của anh. Phải nói thực là tôi cũng không hẳn là hoàn toàn chia sẻ với anh tất cả các ý mà anh viết. Anh nói là bản thân không tranh luận và tôn trọng tính đa dạng. Theo tôi việc tôn trọng tính đa dạng và không tranh luận, hai việc đó không mâu thuẫn với nhau. Nếu tranh luận để đi tới áp đặt chân lý là sai lầm. Nếu tranh luận để hiểu rõ nhau, để hiểu quan điểm này có cơ sở gì là cần thiết. Bên cạnh đó tôi nghĩ rằng đề nghị anh trong buổi hôm nay phá vỡ cái lệ ấy, cần trao đổi một số ý mà anh em đặt ra để hiểu rõ thêm về quan điểm của anh chứ không phải tranh luận để áp đăt chân lý.
Ông Nguyễn Trần Bạt: Tôi thấy cần phải nói rõ hơn là tôi không viết quyển sách này cho các giáo sư của học viện Chính trị Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. Bởi vì tôi chờ đợi ở các anh những thứ như thế này chứ không phải là tôi viết cho các anh. Phải nói là tôi viết những cuốn sách này là để giữ lại khán giả trong rạp trong khi chờ đợi các tiết mục chính từ các anh. Những quyển sách của tôi giống như một rổ khoai luộc để chờ cơm chín. Tranh luận với các anh tức là tranh luận với một đối tượng chuyên nghiệp, tôi không phải là một nhà hàn lâm chuyên nghiệp và do đó tôi không tự xếp mình ngang các anh để tranh luận. Cho nên các anh chất vấn và tôi trả lời, tôi làm rõ quan điểm của tôi để các anh thấy. Còn để kết luận là tôi sai ở chỗ này, các anh đúng ở chỗ kia thì tôi sẽ không theo đuổi câu chuyện như vậy.
Ông Phạm Ngọc Quang: Tôi đã đọc một số tác phẩm của anh, có những điểm mà tôi có một số hiểu biết nhất định, cũng có những điểm mà theo tôi cần phải hiểu rõ hơn. Tôi tạm thời nêu một vài ý sơ bộ thế này:

- Xung quanh cuốn Cải cách và sự Phát triển, một điểm lớn trở thành tuyên ngôn của anh là “Lý luận Phi Cách mạng”, nghĩa là anh không tán thành việc tiếp tục xuất hiện các cuộc cách mạng, và từ đó anh nêu quan điểm của anh Cách mạng là gì. Quan điểm của anh về Cách mạng là đúng. Đấy là việc thay đổi trật tự xã hội cũ để tạo ra sự nối tiếp ngẫu hứng. Theo tôi quan điểm ấy không có gì phải tranh luận. Nhưng từ đó anh cho rằng cách mạng như vậy phải trả giá quá đắt, và hậu thế phải trả giá không biết bao giờ mới xong. Và từ đó, theo anh cách mạng ở thời kỳ trước kia thì được, bây gìơ càng phát triển bao nhiêu thì cách mạng ấy càng ít giá trị bấy nhiêu. Do vậy cần phải thay đổi cách mạng bằng cải cách. Tôi muốn đề nghị anh làm rõ ý này.
- Thứ hai, anh cho rằng tự do với chính trị là giải phóng con người ra khỏi chính trị. Tôi chưa rõ là như thế nào. Có phải tự do với chính trị là giải thoát con người ra khỏi chính trị hay không? Trong xã hội luôn có chính trị. Vậy con người có bao giờ hoàn toàn thoát khỏi chính trị hay không, và trên thực tế có điều đó không?
- Ý thứ ba là anh nói cần phải có một hệ tiêu chuẩn về cải cách, trong đó tiêu chuẩn cơ bản về cải cách kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội là cái gì, và tinh thần chung là gì? Và theo anh hệ tiêu chuẩn mang tính toàn cầu về chính trị bây giờ là gì? Nêú người ta nói rằng toàn cầu hoá hiện nay là toàn cầu hoá dưới sự chi phối của tư bản,thậm chí một số người cho rằng toàn cầu hoá hiện nay là toàn cầu hoá tư bản chính trị. Vậy giữa quan điểm đó với quan điểm của anh là hội nhập chính trị toàn cầu với tiêu chí toàn cầu ấy có gì giống hay khác nhau?
- Ý thứ tư là vấn đề giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. Tôi đọc một số tài liệu thấy người ta nói rằng ngay một số quan chức của Pháp cũng lý giải rằng thất bại của họ ở Việt Nam là do không hiểu văn hoá Việt Nam. Một số quan chức Mỹ cũng nói như vậy. Vậy bây giờ anh lại đặt ra vấn đề là không nên giữ bản sắc văn hoá. Anh cho ý kiến thêm về vấn đề này.
Ý cuối cùng là anh rằng cần phải phi chính trị hoá nhà trường. Trong xã hội hiện nay, liệu có thể phi chính trị hoá nhà trường ở mức nào thì có thể chấp nhận được? Ở mức nào thì không thể có được cái đó? Ta đặt ra cái đó liệu có ảo tưởng hay không, có mang tính thực tế hay không?Ông Nguyễn Trần Bạt: Đúng là nguyên lý căn bản của tôi trong quyển sách này là nguyên lý phi cách mạng. Tại sao lại như vậy? Chúng ta cứ nói cách mạng ở trên giấy, nói cách mạng ở trên sách, chúng ta làm thơ về cách mạng, nhưng chúng ta không biết rằng mọi cuộc cách mạng đều để lại những di chứng khổng lồ, kể cả cuộc cách mạng không có bạo lực. Tôi có nói trong quyển sách này là cái di chứng của cách mạng không phải là chết chóc mà là sự sợ hãi. Và sự sợ hãi các di chứng của cách mạng không chỉ có trong người dân mà có ngay trong cả những người lãnh đạo, những người cầm quyền. Tôi có tranh luận với đại sứ Ukraine. Tôi bảo tôi sẵn lòng. Các ông ấy tự ca ngợi các ông ấy đã thành công với cách mạng Cam, Cách mạng Nhung, nhưng bây giờ các anh chị thấy rằng thực tế cách mạng ở Ukraine không hề Cam, không hề Nhung, mà người ta vẫn tiếp tục khuếch trương tất cả những thắng thua của từng giai đoạn và nó kéo dài tình trạng cả dân tộc quấn theo những thứ không gắn với sự phát triển tự nhiên của cuộc sống. Ở Việt Nam chẳng hạn, các anh thấy rằng cuộc tranh luận giữa nhà cầm quyền Việt Nam với ông linh mục trong sự cố liên quan đến nhà thờ công giáo gần đây là tranh luận về quyền sở hữu đất đai. Sự thay đổi quyền sở hữu đất đai là kết quả của cuộc Cách mạng. Người Việt Nam chúng ta còn phải tham gia vào giải quyết những hậu quả cách mạng ấy trong 50-70 năm nữa chứ không phải bây giờ. Cách mạng buộc phải thay đổi một cách quyết liệt, ngay lập tức, nhưng bây giờ chúng ta làm chủ xã hội thì chúng ta phải có ý thức về sự hợp lý hoá hằng ngày của toàn bộ các tiến trình phát triển. Cho nên tôi nói rằng cần phải thay thế cách mạng bằng cải cách chứ tôi không phủ nhận cái việc cần phải làm biến mất những điều bất hợp lý và thay thế nó bằng những điều hợp lý. Tức là ở đây tôi muốn nói là quy trình tạo ra sự thay đổi, sự phát triển như thế nào thì phù hợp. Nguồn năng lượng mà nhân loại có không đủ để tiến hành các cuộc cách mạng. Người ta đưa ra những dự báo là vào những năm 40 của thế kỷ này, các năng lượng cacbon sẽ hết, và người ta buộc phải nghiên cứu các dạng năng lượng khác. Trên thế giới người ta đã nghiên cứu sử dụng năng lượng nhiệt trong lòng trái đất, rồi nghiên cứu năng lượng sóng, năng lượng gió… Nhưng tất cả những nghiên cứu ấy chỉ ra rằng nhân loại vẫn chưa đủ tiền để đầu tư và bây giờ người ta vẫn tiếp tục dùng nguồn năng lượng sẵn có, vẫn tiếp tục thay thế nó bằng năng lượng hạt nhân, và cái đấy ẩn chứa một nguy cơ khổng lồ. Các cuộc cách mạng luôn kéo theo sự sợ hãi, sự bất ổn định tinh thần, làm con người dừng lại không sáng tạo. Nếu như chúng ta tạo ra một trạng thái yên ổn thì mọi người đều có thể là tư tưởng của riêng mình, mọi người đều có thể trở thành nhà khoa học của riêng mình. Do đó, tỷ lệ con người có năng lực sáng tạo sẽ lớn hơn, phổ biến hơn và điều đó làm cho nhân loại trở nên tiết kiệm hơn. Cho nên, luận điểm của tôi là luận điểm nhân loại không còn đủ sức chịu đựng các cuộc cách mạng. Nói cho cùng, các cuộc cách mạng diễn ra trong thực tế đời sống của lịch sử nhân loại cũng không nhiều lắm, mà hậu quả của nó đã ghê gớm như vậy. Sự sụp đổ của Liên bang Xô viết là kết quả của cách mạng. Nhân cái đà đấy, người ta đã tạo ra một quốc gia là kết quả của sự cưỡng bức rất nhiều thứ. Và nói rằng cách mạng là một cơ hội lớn cho rất nhiều kẻ cơ hội. Có thể ở chúng ta không có, nhưng trên thế giới những kẻ cơ hội như vậy rất nhiều. Những kẻ cơ hội nhân dịp cách mạng bằng một số trò láu cá chính trị mà trở thành kẻ cầm quyền thì tại họa của nhân loại là không thể tưởng tượng được. Cho nên, các nhà chính trị mọi thời đại, ở mọi quốc gia cần phải tỉnh táo tạo ra một lộ trình hoàn toàn chủ động để xây dựng sự hợp lý của đời sống. Đấy là tư tưởng cơ bản của tôi.
Về ý thứ hai mà anh nói là tự do chính trị. Tự do về chính trị là giải phóng con người ra khỏi chính trị. Tôi có thể hoàn toàn làm rõ quan điểm này. Giải phóng con người ra khỏi chính trị là giải phóng con người ra khỏi những động cơ chính trị cụ thể, những áp đặt chính trị cụ thể. Chính trị là một mặt của đời sống, không ai ra khỏi chính trị hoàn toàn được, nhưng cái chính trị mà con người có một cách tự nhiên với cái chính trị ép buộc phải có là hai cái khác nhau. Khi con người bị ép buộc về chính trị thì con người mất cảm hứng sống và mất cảm hứng phát triển. Trong tác phẩm “ Bàn về lý luận không có con người” mà ông Trần Đức Thảo viết, ông ta có nói đến khía cạnh này. Bằng những lập luận như vậy, tôi muốn nói rằng cần phải trả cho con người cuộc sống, mà nói đến cuộc sống là phải yên ổn, nó phải bình dị, phải tự nhiên. Khuyến khích nó thì được nhưng ép nó thì không được. Đôi lúc chúng ta cố ép, chúng ta ép đến mức ngay cả những người đứng đầu một hệ thống chính trị cũng trở nên mất tự do. Tôi nhìn hình ảnh các nhà lãnh đạo cầm tờ giấy khi nói chuyện với các nguyên thủ nước ngoài là tôi thấy đau khổ. Tại sao lại có một không khí, một tiêu chuẩn để ngay cả các nhà lãnh đạo ở cương vị cao nhất cũng không cảm thấy mình tự do? Tôi là một kẻ vô danh tiểu tốt, tôi trốn vào một ngõ hẻm như thế này, tôi tự do hay không tự do, tôi chịu sức ép hay không, không ai biết, nhưng với những người giữ địa vị quan trọng và luôn xuất hiện trước mặt thiên hạ thì khác. Bây giờ các anh thấy rằng đi ra ngoài đối thoại mà không có tự do thì không được người ta tôn trọng. Năm 1990 tôi có một cuộc nói chuyện ở Washington DC với khoảng 700 doanh nghiệp, người lái ô tô đưa tôi đến hội trường là giáo sư Leonardo Unger, nguyên thứ trưởng Bộ ngoại giao Hoa Kỳ mà tôi quen ở Việt Nam. Tôi nói với giáo sư là đưa tôi đến chỗ bức tường kỷ niệm người Mỹ chết trận ở Việt Nam và lái về chỗ hội trường chậm 1 phút, ông ấy không hiểu ý tôi, nhưng tôi nhờ nên ông ấy làm đúng như vậy. Đến chỗ bức tường ấy tôi mua một bó hoa đặt vào đấy, khi tôi đến hội trường muộn 1 phút thì tất nhiên người ta đặt câu hỏi: tại sao ông đến muộn. Tôi giải thích là tôi đến để đặt bó hoa lên bức tường kỷ niệm. Có một anh giám đốc Việt Kiều 70 tuổi hỏi tôi ngay: tại sao anh làm như thế? Tôi trả lời, loài người chúng mình được cho là động vật thông minh mà đã là thông minh thì nó không mang khái niệm hộ chiếu lên thiên đường. Nếu không có các động thái như vậy thì tôi không đủ tự tin để nói chuyện với các vị ở đây. Các anh, các chị mà thấy các nhà ngoại giao của chúng ta đi ra nước ngoài thì đau khổ lắm, không một ai tự nhiên, không một ai tự do. Và phải nói thật là họ ít sợ địch hơn là sợ đồng nghiệp ở nhà. Những hiện tượng như vậy bóp chết cảm hứng sống, cảm hứng sáng tạo của con người.
Về ý thứ ba, tôi hoàn toàn không đồng ý với anh Quang rằng toàn cầu hóa và toàn cầu hóa tư bản chủ nghĩa, đấy là một quan điểm sai trái và lạc hậu về mặt chính trị hay lạc hậu về mặt khoa học. Toàn cầu hóa không có ai lãnh đạo, những kẻ nhiều tiền có khuynh hướng thắng thế trong quá trình toàn cầu hóa, nhưng khi nó thất bại thì nó trả giá rất đau. Người Mỹ đang trả giá cho việc toàn cầu hóa một cách thái quá đến mức mất khả năng kiểm soát, bởi vì toàn cầu hóa có mặt trái của nó. Toàn cầu hóa là một quá trình tự nhiên và những kẻ chiếm ưu thế là những kẻ nhiều tiền. Tuy nhiên không phải cứ có tiền là có ưu thế. Trong thời đại hiện nay, trí tuệ bắt đầu trở thành quyền lực, trở thành sức mạnh, mà những kẻ có tiền chưa chắc là những kẻ có trí tuệ. Vì thế, với một nước nghèo như chúng ta thì giới trí thức của chúng ta buộc phải có trí tuệ, buộc phải khôn ngoan. Khi thị trường chứng khoán Việt Nam bùng nổ, tôi có ra lệnh trong công ty của tôi là ai mà dính đến chứng khoán là tôi buộc thôi việc. Và tôi cũng đã nói khi trả lời phỏng vấn của báo chí là thị trường chứng khoán này sẽ phá vỡ toàn bộ thành tựu 20 năm xóa đói giảm nghèo của đất nước chúng ta. Có thể còn nhiều người chưa đồng ý với kết luận của tôi, nhưng tôi chắc chắn rằng giờ này Quốc hội Mỹ đã đồng ý với kết luận của tôi khi xem xét vấn đề khủng hoảng tài chính. Tất cả các quỹ này, quỹ kia mà người Việt Nam chào đón là những kẻ môi giới sự thất thoát quyền lực không chỉ về kinh tế mà còn là sự thất thoát quyền lực chính trị. Chúng ta đón chào những kẻ địch tương lai mà chúng ta không biết. Chúng ta không biết bởi chúng ta không đủ trí khôn. Nếu chúng ta không đủ trí tuệ để tạo ra sự khôn ngoan của dân tộc thì chúng ta vẫn là nước bé. Chúng ta ở bên cạnh Trung Quốc khổng lồ, đấy là một bất lợi lớn cho chúng ta. Tôi gọi nền sản xuất của nước CHND Trung Hoa là một chiến dịch phá hoại vĩ đại đối với toàn bộ năng lượng sống và phát triển của thế giới. Điều này tôi không chỉ nói với các anh, tôi đã từng nói với anh Trần Nguyên là con trai của Phó chủ tịch Đảng cộng sản Trung Quốc Trần Vân tại Bắc Kinh, trong khi chúng tôi ăn cơm với nhau tại Bắc Kinh. Với việc biến tất cả các nguyên liệu được sản xuất một cách nghiêm túc như thế này trở thành các phế phẩm, trở thành những bộ quần áo chỉ mặc vài ngày là vứt thì tôi không hiểu người Trung Quốc sẽ đi đến đâu. Tôi nói với bà đại sứ Mỹ Barshefsky trước đây là đại diện thương mại của chính phủ Hoa Kỳ rằng, với tình trạng sản xuất như thế và cung ứng hàng hóa như thế, nước CHND Trung Hoa đã làm cho nền văn hóa tiêu dùng của thế giới bị biến dạng và bị hạ lưu hóa như thế nào. Tôi cảnh báo điều này từ năm năm trước chứ không phải bây giờ.

Nguồn: Sưu tầm

Tọa đàm giữa ông Nguyễn Trần Bạt và các cán bộ nghiên cứu (Phần 1)

Ông Nguyễn Trần Bạt

Chúng tôi nhận thấy đây là bài viết khá hay nên post lên đây để bà con chúng ta có điều kiện tham khảo


                                      TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC

Ông Phạm Ngọc Quang: Tôi xin giới thiệu anh Nguyễn Trần Bạt, Tổng giám đốc Công ty Tư vấn Đầu tư và Chuyển giao công nghệ. Hiện nay, công ty anh Bạt có khoảng 300 nhân viên làm việc ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và Cần Thơ. Công ty đã làm việc với rất nhiều dự án nước ngoài như Coca-Cola, IBM… Anh Bạt đã từng tiếp hàng nghìn người nước ngoài và là một người am hiểu nhiều vấn đề. Anh Bạt cũng đã đi rất nhiều nước, đến nhiều trường đại học danh tiếng trên thế giới thuyết trình và đã từng gặp gỡ, trao đổi với Tiến sĩ Henry Kissinger.

Tôi cũng xin giới thiệu với anh Bạt về thành phần đoàn của chúng tôi gồm:
- Tiến sĩ Nguyễn Viết Thông, Tổng thư ký Hội đồng Lý luận Trung ương.
- Phó giáo sư, Tiến sĩ Đàm Đức Vượng, Nguyên Chánh văn phòng Hội đồng Lý luận Trung ương.
- Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Ngọc Quang, Thường trực chuyên trách Hội đồng khoa học, Học viện Chính trị-Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
- Tiến sĩ Nguyễn Văn Hoà, Vụ trưởng, Ban Tuyên giáo Trung ương.
- Thạc sĩ Lê Đức Thắng, nguyên Vụ trưởng Vụ Tổng hợp, Văn phòng Trung ương.
- Cử nhân Hoàng Thị Minh Ngọc.
Trong buổi làm việc hôm nay, chúng tôi đề nghị anh Bạt trao đổi về 2 vấn đề nhưng thực ra chỉ là một, đó là vấn đề dân chủ, đồng thuận, đoàn kết đối với doanh nhân và trí thức, bởi vì doanh nhân là một đặc thù trí thức. Làm thế nào để phát huy dân chủ, đoàn kết, đồng thuận xã hội đối với đội ngũ doanh nhân, làm thế nào sử dụng tốt đội ngũ doanh nhân để giải phóng khả năng phát triển và sáng tạo của họ, và trọng dụng doanh nhân như thế nào là hợp lý để phát huy sức mạnh của doanh nhân.
Ông Nguyễn Trần Bạt: Thực ra, tôi không có bất kỳ một bài thuyết trình nào cụ thể về vấn đề này, nhưng tôi đã nghiên cứu gần như tất cả những vấn đề có liên quan đến khả năng sáng tạo và cảm hứng của sự sáng tạo trong đời sống nói chung. Tôi chưa nói đến đời sống trí thức vì tôi không đồng ý với khái niệm gọi là tầng lớp trí thức, tôi cho rằng trí thức có mặt trong mọi hoạt động, mọi hành vi hàng ngày của con người. Trước đây, khi anh Trần Hoàn còn là Phó ban Văn hoá Tư tưởng Trung ương, trong một buổi giao lưu với các nhà báo có sự tham gia của anh ấy, tôi có nói rằng, tôi không tin có nhà chính trị, có người trí thức, có nghệ sỹ, có nhà báo… mà đấy chỉ là những trạng thái khái nhau, quán xuyến những giai đoạn khác nhau trong đời sống của con người. Khi đặt bút viết quyển sách Cội nguồn cảm hứng vừa xuất bản, tôi có giải thích hầu hết những vấn đề liên quan đến đời sống tinh thần của con người. Trong quyển sách này, tôi phân chia Tự do ra làm hai không gian. Tự do có tính chất điều kiện, tức là nó liên quan đến việc xây dựng thể chế, tôi gọi là tự do bên ngoài, tự do khách quan. Còn không gian tự do bên trong chính là không gian tinh thần của con người, nó phải có những yếu tố tự do riêng. Và tự do nói chung được định nghĩa là: Sự dịch chuyển song song của ý nghĩ và hành vi. Ở chỗ nào ý nghĩ được biến thành hành động một cách tự nhiên thì ở đấy có tự do.
Trong buổi toạ đàm hôm nay với các anh, những nhà lý luận của Đảng, tôi không nói về tự do bên trong mà tôi muốn nói về tự do bên ngoài, tức là các điều kiện vĩ mô của đời sống con người. Nó liên quan đến rất nhiều yếu tố, trong đó, có lẽ yếu tố chính trị là số một. Các nhà tiền bối của chúng ta nói rằng Chính trị là thống soái thì rất nhiều người hiểu thống soái là chỉ huy, nhưng tôi nghĩ rằng, chính trị chỉ chỉ huy ở một số điều kiện, cho nên, phải nói là chính trị hướng dẫn mới đúng. Nếu những yếu tố chính trị không tích cực thì rất khó để con người có điều kiện sáng tạo và phát triển.
Vấn đề thứ hai mà tôi muốn trao đổi với các anh là Quyền lực. Quyền lực tác động một cách khủng khiếp đến khả năng phát triển của con người. Quyền lực là nguồn gốc tạo ra nỗi sợ, và sự sợ hãi là yếu tố trực tiếp ngăn cản toàn bộ cảm hứng phát triển. Người ta hay nói đến sự sợ hãi gắn liền với cách mạng, chiến tranh, chết chóc… những tôi là một người lính đã từng ra trận, đã từng đối mặt với cái chết, tôi hầu như chưa thấy các biểu hiện sợ chết nào đó của người lính. Ở đấy người ta sẵn sàng rủ nhau hy sinh một cách rất tập thể. Tôi đã từng sống trong môi trường có hàng chục ngàn nữ thanh niên xung phong. Lúc bấy giờ cuộc sống khổ lắm, ngay cả cái quần lót, áo lót cũng thiếu, rồi bệnh ngoài da, bệnh sốt rét hành hạ nữa… Với tư cách là một anh trí thức ra trận, tôi quan sát họ nhưng tôi không nhìn thấy ở họ sự sợ chết, sợ khổ, sợ cô đơn cũng không. Còn bây giờ, nói chuyện với nhiều nhà cách mạng đã về hưu, những người ở tuổi 80 trở lên, tôi thấy trong họ bắt đầu tiềm ẩn những nỗi sợ. Vậy cái gì tạo ra nỗi sợ của những người cực kỳ dũng cảm như vậy ở giai đoạn hiện nay? Tôi cho rằng, đó là dấu hiệu của những tác động quyền lực.
Vấn đề thứ ba mà tôi muốn trao đổi là trí lực, trí tuệ. Ở vấn đề này, tôi muốn dẫn đến việc phân tích toàn bộ tiến trình phát triển của thế giới hiện nay, nhất là phân tích hiện tượng khủng hoảng kinh tế thế giới. Tôi có trao đổi vấn đề này với anh em Vietnamnet, sau đó họ đăng bài của tôi phân tích về hiện tượng Obama. Thực ra tôi lấy hiện tượng ấy để phân tích những quan điểm của tôi về khủng hoảng kinh tế thế giới. Khi khủng hoảng kinh tế thế giới xảy ra, có rất nhiều quan điểm khác nhau phân tích hiện tượng này. Có người nói rằng, bây giờ chủ nghĩa tư bản sụp đổ rồi, chủ nghĩa xã hội đang quay lại và nước Mỹ sẽ là nước xã hội chủ nghĩa. Tôi đọc tất cả những bài phân tích như vậy và tôi thấy một nguy cơ có thể xảy ra là chúng ta sẽ xét lại toàn bộ quá trình Đổi nới và xây dựng nền kinh tế thị trường. Vì thế, tôi cho rằng cần phải phân tích toàn bộ hiện tượng Obama , phân tích toàn bộ hiện tượng kinh tế thế giới để nói đến một vấn đề mà hôm nay tôi nói với các anh là: sự sụp đổ của nền kinh tế thế giới hiện nay chính là kết quả của sự phát triển một cách đột biến của kinh tế tri thức, và nó vượt ra ngoài năng lực hiểu biết, năng lực quản lý của tất cả các chính phủ. Các anh biết rằng với khối lượng 500.000 tỷ đô la thì nó nằm bên ngoài năng lực kiểm soát của tất cả các chính phủ. Và chính những yếu tố như thế tạo ra sự khủng hoảng đến mức một người như Greenspan khi đến điều trần tại Quốc hội Hoa Kỳ ngớ người ra và ông ấy phải nói câu kết thúc rằng: “Ngay cả khi đã phân tích như thế này rồi, tôi vẫn không hiểu tại sao lại khủng hoảng”. Chúng ta đã nhìn vấn đề kinh tế tri thức một cách cực kỳ đơn giản. Khi đọc những bài viết của một số giáo sư ca ngợi nền kinh tế tri thức, tôi thấy nổi da gà, vì tôi biết rất rõ rằng nền kinh tế tri thức có thể mang lại những tai hoạ khủng khiếp như thế nào, tôi biết rất rõ rằng cái rủi ro thật sự của tất cả các chính phủ nằm ở đâu. Cái cảm hứng sáng tạo, nhất là trong khu vực doanh nhân, là một khái niệm hoàn toàn không lãng mạn, nó vừa là động lực của sự phát triển, vừa là nguy cơ của sự phát triển, bởi vì sự phát triển thái quá cũng là một nguy cơ. Trong cuốn sách Cội nguồn cảm hứng, tôi gọi hiện tượng thái quá là sự lộng hành của các khái niệm, của các mặt khác nhau của đời sống như vậy tạo ra những nguy cơ hết sức nghiêm trọng đối với tất cả các nhà cầm quyền. Mọi nhà cầm quyền đều rơi vào trạng thái bất ngờ trước sự phát triển có chất lượng đột biến của kinh tế tri thức. Nghe các quan chức nói trên ti vi, đài, báo đón quỹ này, đón quỹ kia, nhiều khi tôi thấy lo. Tôi là người khá có kinh nghiệm trong lĩnh vực này, tôi không nói là hiểu biết vì hiểu biết của người Việt chúng ta về vấn đề này còn ít lắm, người tiên tiến nhất trong xã hội này cũng còn xa lắm mới đạt đến trạng thái làm chủ được loại hình hoạt động của nền kinh tế hiện đại. Tôi đã có 7 năm va chạm, nghe thấy, trông thấy khi tham gia một quỹ đầu tư vào toàn bộ lưu vực sông Mê kông. Tôi nhìn thấy sự tiềm ẩn của các nguy cơ của toàn cầu hoá, nhưng không có diễn đàn để nói. Hôm nay, phải nói rằng rất cám ơn các anh đã hỏi để tôi có cơ hội nói những vấn đề như thế với các anh. Đặt ra vấn đề đoàn kết và đồng thuận trong xã hội, nhất là đối với giới doanh nhân và đặt ở tinh thần như thế này thì phải nói rằng, như vậy là chúng ta quá trong sáng. Đây là một lực lượng có tính chất gây nổ đối với mọi xã hội, không phải là lực lượng cần động viên, nhất là doanh nhân. Họ không sống bằng sự động viên của các nhà lý luận, của đảng và nhà nước. Âm thầm trong họ có ẩn chứa nhiều nhân tố. Những nhân tố ấy xét về mặt tích cực là động lực của sự phát triển của mọi nền kinh tế, nhưng nó cũng đồng thời tiềm ẩn những yếu tố gây sụp đổ của mọi nền kinh tế.
Trong thế kỷ của chúng ta, kinh tế đã trở thành hoạt động xã hội chủ yếu, trở thành ngôn ngữ đối thoại không chỉ của doanh nhân, mà còn của mọi nhà chính trị. Các anh thấy rằng, khoảng 20 năm nay, có đến 70-80% giải Nobel về kinh tế được trao cho các nghiên cứu ngoài kinh tế, những nghiên cứu về sự bất đối xứng của thông tin, những nghiên cứu về tâm lý. Chỉ có giải Nobel kinh tế năm ngoái là được trao cho các nhà kinh tế. Có nghĩa là kinh tế đã trở thành một đối tượng của khoa học chính trị, hay nói cách khác, từ thời Marx đến bây giờ, nó quay lại một chu kỳ là người ta phải nghiên cứu các hiện tượng kinh tế với tư cách là kinh tế chính trị học chứ không phải kinh tế học thuần tuý nữa. Mọi lý thuyết kinh tế đều có giá trị sử dụng trong những giai đoạn nhất định. Ví dụ, giai đoạn vừa rồi là giai đoạn của lý thuyết “Tân tự do” mà đại diện là các nhà kinh tế Áo. Từ khoảng đầu những năm 80 cho đến năm 1995, theo đánh giá của tôi, nó đóng vai trò cực kỳ tích cực. M. Thatcher và R. Reagan là hai nhà chính trị biết khích lệ, biết sử dụng trường phái “Tân Tự do” ấy để tạo ra sự phát triển vượt bậc của kinh tế thế giới và lôi kéo tất cả các quốc gia, kể cả Việt Nam. Ở Việt Nam chúng ta nói rằng nền kinh tế của chúng ta có định hướng này, định hướng kia nhưng trên thực tế, tiềm ẩn trong xã hội là nền kinh tế phát triển với bản chất của một nền kinh tế “Tân Tự do”. Các nhà chính trị chưa biến nó thành một khuynh hướng “Tân Tự do”, nhà nước hay Đảng chưa biến nó thành một khuynh hướng “Tân Tự do”, nhưng toàn cầu hoá đã làm cho khuynh hướng “Tân Tự do” trở thành động lực, trở thành phong cách của nền kinh tế Việt Nam trong 20 năm vừa rồi, và đỉnh cao của nó là thị trường chứng khoán. Tôi có nghe nói nhóm tư vấn cho Thủ tướng Chính phủ đã tổng kết về ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới đối với Việt Nam là đến chậm, ở lâu, phá lớn và tạo ra cơ hội. Tôi không cho là như vậy. Sự khủng hoảng của nền kinh tế thế giới đến Châu Á rất sớm, nhất là đối với Việt Nam và Trung Quốc, nhưng hệ thống truyền thông của chúng ta không đủ kinh nghiệm để phản ánh nó. Chúng tôi theo dõi tất cả các mạng quốc tế về tất cả các hiện tượng nên chúng tôi biết rằng nó đến rất sớm. Tôi đã từng nói với anh em đại diện hãng Down Jones ở Hà Nội về sự sụp đổ của thị trường chứng khoán Việt Nam khi chỉ số VN Index là gần 1200. Tôi nhìn thấy chuyện ấy, tôi viết bài cảnh báo, nhưng không thấy ai có phản ứng gì cả. Khủng hoảng kinh tế thế giới đến Việt Nam rất sớm và nó cũng không ở lâu, bởi vì năng lực chịu đựng của Việt Nam là rất mỏng. Chúng ta chỉ đủ năng lượng để chịu đựng một pha chứ không đủ năng lượng để chịu đựng lâu dài. Phá lớn thì tôi cũng không cho là đúng vì chúng ta không có đủ năng lực, không có đủ chiều dày tích luỹ lớn để tạo ra một vụ nổ lớn. Tôi có viết một bài trên báo Lao động về Con ngựa và Cỗ xe kinh tế Việt Nam, trong đó tôi nói rằng, Việt Nam không có hiện tượng sụp đổ hoặc hiện tượng khủng hoảng dữ dội về kinh tế, nhưng Việt Nam rơi vào cái bẫy của sự phát triển vị thành niên mãn tính. Tám tháng sau đó, trường Princeton, Hoa Kỳ mở một cuộc Hội thảo về Việt Nam, có anh Lê Đăng Doanh và một số người đi. Tôi có nghe nói rằng, kết luận của Hội thảo đó là: nền kinh tế Việt Nam vẫn có những mặt hấp dẫn, đặc biệt là hấp dẫn đầu tư nước ngoài nhưng nó rơi vào cái bẫy của sự phát triển yếu, ở mức trung bình thấp. Như vậy khủng hoảng kinh tế thế giới sẽ không thể phá lớn ở Việt Nam , còn tạo ra cơ hội thì cũng không hơn gì khi nó không khủng hoảng.
Khi phân tích khủng hoảng kinh tế thế giới, tôi thấy rằng bản chất của sự phát triển kinh tế ở thế kỷ XXI là phát triển kinh tế tri thức. Nhưng kinh tế tri thức không phải là những sản phẩm đẹp đẽ, lành mạnh được diễn đạt dưới dạng ngôn ngữ hàn lâm đơn giản mà kinh tế tri thức là những cách thức để thoát khỏi sự kiểm soát, sự điều khiển của mọi nhà cầm quyền. Đấy là yếu tố tiêu cực số một của kinh tế tri thức. Vì đóng thuế luôn là vấn đề đối với mọi nhà kinh doanh, cho nên, chỗ nào tự do về thuế là người ta đến đấy lập công ty. Tôi đã đến hai hòn đảo ở giữa Đại Tây Dương, biển Manche, có tên là Guernsey và Jersey. Đấy là hai hòn đảo mà trong hiệp ước Postdam người ta quên mất không chia cho ai cả, cho nên nó giống như Liechtenstein hoặc Luxembourg, trở thành một định chế không được phân chia, nó rất kỳ lạ là có đồng tiền riêng, hộ chiếu là của Anh, nhưng vào đó thì phải có visa. Ở đấy có hàng chục nghìn công ty được thành lập, mỗi công ty chiếm diện tích rất nhỏ, giống như nghĩa trang ở Đài Loan, tức là người ta đính tên công ty lên trên tường và một cô thư ký ở đấy trực điện thoại cho 50-70 công ty. Như vây, yếu tố tiêu cực thứ nhất của nền kinh tế tri thức trong thế kỷ này chính là sự phát triển tri thức trong việc né tránh sự kiểm soát của tất cả các nhà cầm quyền. Thứ hai là các sản phẩm tài chính của nó quyến rũ con người bất chấp khả năng hiểu biết của họ. Và người Mỹ là những người đầu tiên bị lừa trong chuyện này. Sự sụp đổ hay khủng hoảng của nền kinh tế Hoa Kỳ là do sự mất cân đối của việc “Vay” và “Tiêu”. Trong bài phân tích về hiện tượng Obama, tôi có nói là nền kinh tế tri thức thể hiện ở các sản phẩm thông minh, nhưng với các dân tộc đông dân, không có cách gì để tất cả mọi người đều tham gia vào việc sản xuất ra các sản phẩm thông minh như vậy. Cho nên, nhiệm vụ của các nhà cầm quyền là hoạch định nền kinh tế như thế nào đó để không ngăn cản mặt tích cực của kinh tế tri thức, nhưng cũng không làm mất đi cái gốc căn bản của nền kinh tế truyền thống mà những con người thông thường, những bộ phận thông thường của nhà nước, của chính phủ có thể kiểm soát được.
Khi tôi đến Mỹ lần đầu tiên, năm đó Tổng thống Clinton vừa mới nhận chức, sáng vừa mở mắt ra tôi bật ti vi và nghe thấy ông ấy nói rằng: “Hôm nay nước Mỹ có một tin vui và có một tin buồn, tin vui là đêm qua tôi vừa ký xong Hiệp ước NAFTA, còn một tin buồn là sáng nay chúng ta đã phải xử trắng án cho cầu thủ bóng bầu dục Simpson, tôi xem đấy là sự thất bại thảm hại của nền tư pháp Hoa Kỳ”. Qua những chuyện như vậy tôi muốn nói với các anh rằng, chính loài người đã nghĩ ra những mẹo, những công nghệ để xã hội hoá cả những thành tựu có chất lượng khoa học và cả những thành tựu có chất lượng tội phạm. Mà chúng ta thì chỉ để ý đến khía cạnh tích cực của nó và quên mất là chúng ta không đủ khả năng để đối phó với những khía cạnh tiêu cực của nó. Ví dụ, tôi đã cảnh báo từ lâu lắm rồi về sự xâm phạm các quyền sở hữu trí tuệ. Sự xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ là một trong những biện pháp để tàn sát cảm hứng sáng tạo. Chúng ta không thể nói khích lệ cảm hứng sáng tạo là khích lệ chính trị đơn thuần được. Chúng ta cần phải xây dựng cảm hứng sáng tạo cho người lao động, cho người dân trong cả nước, mà xây dựng cảm hứng sáng tạo về bản chất chính là xây dựng tính chuyên nghiệp của các thể chế để nó phù hợp với sự dâng lên của đời sống trí tuệ loài người chứ không chỉ có nhân dân mình, bởi vì chúng ta đang sống trong thời đại toàn cầu hoá. Trong quá trình va chạm, từ lâu tôi đã nhận thấy rất nhiều dấu hiệu tiêu cực của nền kinh tế tri thức. Từ 10 năm trước, ở công ty của tôi, chúng tôi đã nhận được rất nhiều thư đề nghị là nếu mở một tài khoản ở Nigeria, ở chỗ này, ở chỗ kia thì ông sẽ nhận được bao nhiêu phần trăm. Không ai trên thế giới này nói chuyện mấy trăm triệu đơn giản cả, ở chúng ta nói chuyện mấy chục tỷ cứ như chuyện chơi. Tôi đã từng viết bài cảnh báo rằng, bất động sản không phải là một loại dự án đầu tư nước ngoài, vì 80-90% vốn là huy động từ thị trường nội địa và nói cho cùng, bất động sản là những quả mìn gài sẵn để tạo ra sự bùng nổ nếu không may cho nền kinh tế Việt Nam. Khi tỷ lệ đầu tư nước ngoài lên đến 57%, có nhiều người đến hỏi tôi về hiện tượng này, tôi nói rằng: tôi không thích đưa ra những dự báo tiêu cực, nhưng tôi run sợ trước thông tin này. Đấy là những dấu hiệu của cái gọi là nền kinh tế tri thức, nó có cả hai mặt, nếu chúng ta để ý đến những mặt tiêu cực của nó quá thì kìm hãm sự xâm nhập của những yếu tố tích cực, nhưng nếu không cảnh giác thì chúng ta sẽ chỉ đón nhận toàn cái tiêu cực.
Vậy thì việc quan niệm sai có những tác hại gì? Thứ nhất là chúng ta không chuẩn bị một chính phủ đầy đủ trí tuệ để điều hành một nền kinh tế phức tạp như vậy. Cho nên, khi quan sát các Bộ trưởng trả lời chất vấn của Quốc hội, tôi nghĩ tại sao người ta lại không tắt truyền hình trực tiếp đi. Các anh không nghĩ rằng như vậy là thông báo sự non kém của nội các với toàn thế giới để rủ tất cả những tên lừa đảo đến. Những biểu hiện như vậy là rất nguy hiểm, và có thể nói đấy là sự mất cảnh giác. Vì vậy, việc thứ nhất có lẽ là chúng ta phải chuẩn bị một chính phủ đầy đủ sự thông thái. Ví dụ, có những đồng chí lãnh đạo nói rằng, sao mọi người cứ chỉ trích tôi là không chịu đối thoại với trí thức, hàng ngày tôi tiếp xúc với rất nhiều tiến sĩ, các thạc sĩ. Nhưng họ quên mất rằng, tiến sĩ hay thạc sĩ không phải là trí thức, cái cuối cùng người trí thức mang lại cho xã hội là thông tin, là sự phát hiện những khía cạnh mà xã hội không nhận ra bộ mặt thật của nó chứ không phải danh vị của họ.
Nói tóm lại, xây dựng một hệ thống chính trị, một chính phủ thông thái là việc số một phải làm. Nhưng mà nền kinh tế thì không phát triển bằng chính phủ. Động lực cơ bản của nền kinh tế chính là sự sáng tạo của người dân, nhưng không phải trong khu vực nhà nước. Khu vực nhà nước chỉ là một công cụ có chất lượng kinh tế để thể hiện một khuynh hướng chính trị. Ở Việt Nam, để tạo ra một đơn vị phát triển của một công ty tư nhân mất một đồng thì với công ty nhà nước sẽ mất 8 đồng, tức là gấp 8 lần chi phí. Nếu mà làm kinh tế bằng các công ty nhà nước thì không thể phát triển kinh tế được, nhưng nếu không có nó thì các nhà lãnh đạo, các nhà cầm quyền không đủ tự tin để đối thoại với xã hội, cho nên, nó cần như một khoản thế chấp chính trị chứ không phải là một công cụ kinh tế. Đấy là quan điểm của tôi. Khu vực dân doanh theo thuật ngữ của ta hay khu vực tư nhân theo thuật ngữ phổ biến là động lực cơ bản của nền kinh tế, nó tạo ra công ăn việc làm, tạo ra sức mua của xã hội. Quy luật về cầu là quy luật số một của tất cả mọi trường phái kinh tế học, vì thế người ta mới phải kích cầu. Khu vực tư nhân là khu vực tạo ra năng lực tiêu dùng, cho nên muốn có năng lực tiêu dùng, muốn kích cầu thì phải thúc đẩy sự phát triển của khu vực tư nhân. Trong một lần thảo luận trên Đài truyền hình, tôi có nói rằng, kinh doanh đòi hỏi một phẩm chất, đó là lòng dũng cảm dân sự. Bởi vì, con người ở đâu cũng vậy, về cơ bản là lười biếng và nhát, sợ mất mạng, sợ mất tiền, sợ mất sự yên ổn. Cho nên, kinh doanh đòi hỏi phải có lòng dũng cảm dân sự. Nhiều người không dám phá vỡ sự yên tĩnh bình thường để làm nhà kinh doanh, cho nên gen kinh doanh là gen hiếm, đòi hỏi phải dũng cảm, đòi hỏi chất lượng chiến sỹ ở trong đấy. Vậy những người như vậy cần gì? Trong quyển sách Cội nguồn cảm hứng tôi đã phân tích rất rõ, đó là tự do. Và tới những nước càng chậm phát triển thì nhân dân càng cần bổ sung lượng tự do lớn hơn, thậm chí lớn hơn cả phương Tây. Nếu chúng ta có lượng tự do lớn hơn phương Tây thì nhân dân chúng ta mới có khả năng bứt phá khoảng cách mà trong những thế kỷ trước chúng ta đã bỏ lỡ, chúng ta chưa làm được. Theo quan điểm của tôi, trong lịch sử nước Việt Nam chưa có một thời đại nào có đủ điều kiện để làm tốt việc ấy bằng giai đoạn hiện nay, giai đoạn có một đảng chính trị đã có thành tích cầm quyền. Bởi vì, để tạo ra tự do xã hội là việc rất khó. Ở những nước không nhất nguyên, không đơn nguyên như thế này, để thương lượng được khế ước nội dung của tự do là việc rất khó. Nhưng khi anh chỉ có một tổ chức cầm quyền thôi thì anh có rất nhiều điều kiện thuận lợi trong việc định ra những giới hạn khác nhau của tự do trong toàn bộ tiến trình phát triển của khái niệm này.
Như vậy, trước hết chúng ta phải có một chính phủ, một hệ thống chính trị, có một xã hội dân sự tương đối ổn định và có một độ tự do phù hợp với năng lực quản lý của nhà cầm quyền. Tôi không phải là người xem tự do là một đại lượng lãng mạn. Trong quyển sách Cội nguồn cảm hứng, tôi nói rằng tự do là một thứ ăn được, bản chất của tự do là tạo ra những giới hạn để con người phát triển phù hợp với năng lực của nó và năng lực của nhà quản lý. Và khế ước tự do của mỗi một giai đoạn phát triển luôn luôn là khế ước thể hiện sự thoả thuận. Cho nên, khi phân tích khái niệm đồng thuận, tôi nói rằng đồng thuận là kết quả tự nhiên của thoả thuận. Đồng thuận không phải là tôi đồng ý với anh, tất cả mọi người đồng ý với anh mà chúng ta đồng ý với nhau. Đấy mới là đồng thuận. Nếu chúng ta xây dựng một phong trào chính trị để tìm kiếm sự đồng ý với Đảng thì sẽ rất khó và là ảo tưởng. Nhưng nếu chúng ta tạo ra một cơ cấu xã hội để mọi người đồng thuận với nhau và mọi người có thể đồng thuận với sự hướng dẫn chính trị trong từng việc, trong từng nhiệm vụ, trong từng giai đoạn thì đấy mới chính là một cách thức tiếp cận hợp lý đến khái niệm này. Khi các anh đặt ra vấn đề kết hợp doanh nhân và trí thức với nhau thì tôi cho rằng cần phải nói về nền kinh tế tri thức, và đấy là một vấn đề cần cảnh báo. Nếu chúng ta nghiên cứu và viết ra được những điều ấy một cách công khai thì Việt Nam sẽ trở thành một quốc gia tiên tiến trong trào lưu nghiên cứu về nguy cơ này của thế giới. Tôi có thể khẳng định rằng, thế giới chưa vạch ra mâu thuẫn giữa năng lực quản lý của các chính phủ với sự phát triển có tính chất vô chính phủ của nền kinh tế tri thức. Đây sẽ là một phát hiện của người Việt mà tôi thì không có đủ thời gian, không có đủ lực lượng, nên tôi muốn gợi ý các anh một vài khái niệm, với một bộ máy khổng lồ của Đảng thì các anh nên nghiên cứu. Tôi nghĩ rằng chúng ta sẽ đóng góp cho thế giới chứ không phải chỉ đóng góp cho Đảng. Đấy là một mâu thuẫn cơ bản của thế kỷ này. Thế kỷ XXI không phải là thế kỷ của đấu tranh giai cấp, không phải là thế kỷ của chiến tranh lạnh Đông – Tây, không phải là thế kỷ của sự va chạm của các nền văn minh như Huntington nói. Thế kỷ XXI này là thế kỷ của sự đấu tranh giữa các chính phủ với những mặt không chính đáng của các nền kinh tế hay là những yếu tố lộng hành của nền kinh tế tri thức. Vấn đề các anh đặt ra, tôi tạm mở đầu như vậy để các anh chất vấn tôi.

Nguồn: Sưu tầm

8/19/11

Thử bàn việc tổ chức Lễ giỗ Tổ họ Lê Việt Nam (Bài viết của Lê Quang Minh)


THỬ BÀN VIỆC TỔ CHỨC LỄ GIỖ TỔ HỌ LÊ VIỆT NAM





Từ xưa nhân dân ta đã có câu ca dao:


"Con người có tổ có tông
Như cây có gốc như sông có nguồn"


Câu ca dao trên đã nói lên đạo lý “Hiếu- Nghĩa” của con cháu đối với tổ tiên, ông bà - uống nước nhớ nguồn. 


Xuất phát từ đạo lý trên, nhân dân ta đã tổ chức những lễ giỗ tổ vua Hùng, giỗ tổ các họ phái và xây dựng các nhà thờ, lăng miếu tượng đài… để tưởng niệm các bậc tiền nhân. Việc tổ chức lễ giỗ tổ dòng họ rất phù hợp lòng người và đường lối văn hoá của Đảng là: “Xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”.


Từ nhận thức trên họ Lê tỉnh Thừa Thiên Huế đã tổ chức 6 lần lễ giỗ tổ họ Lê Việt Nam. Qua thực tế, chúng tôi xin nêu một số ý kiến khác nhau để xin sự giúp đỡ của bà con trong dòng họ.


1/- Ngày giỗ tổ :


Hiện nay chúng ta chưa biết tên tuổi, ngày sinh, ngày mất của ngài thuỷ tổ họ Lê Việt Nam. Các bộ sách quốc sử lớn như: Đại Việt sử ký toàn thư, Lê triều ngọc phổ, Khâm định Việt sử thông giám cương mục… đều không ghi tên tuổi của ngài thuỷ tổ họ Lê. Trong lúc chờ đợi các nhà sử học nghiên cứu, chúng tôi tạm thời lấy ngày 16 tháng 01 âm lịch là ngày mất của ngài Triêu tằng tổ cao thượng tổ Lê Đột là cố nội của vua Lê Đại Hành (theo sách Nhân vật họ Lê trong Lịch sử Việt Nam của Phan Ngô Minh và Lê Duy Anh, nhà xuất bản Đà Nẵng) để làm ngày giỗ tổ họ Lê Việt Nam (xin nói rõ lấy ngày 16 tháng 01 âm lịch là ngày giỗ tổ, không phải giỗ ngài Lê Đột là thuỷ tổ họ Lê Việt Nam).


Việc tổ chức lễ giỗ tổ họ Lê Việt Nam có nhiều ý nghĩa và tác dụng lớn trước mắt cũng như lâu dài…Từ đó tôi xin có vài ý kiến như sau:


Tuy chúng ta chưa biết tên ngài thuỷ tổ họ Lê Việt Nam cũng như các họ khác đều phải có thuỷ tổ. Tất nhiên ngài thuỷ tổ phải sinh ra trong chế độ phụ hệ. Theo tôi hiểu, thuỷ tổ là ông tổ đầu tiên sáng lập ra dòng tộc, hoặc các tổ chức văn hoá xã hội, nghề nghiệp… Họ Phan Việt Nam lấy ngày mắt của ngài Phan Tây Nhạc. Họ Trần lấy ngày mất của ngài Thái Thượng Tổ thượng hoàng Trần Thừa. Ngành Y tế lấy ngày mất của Y sư Lê Hữu Trác làm ngày giỗ tổ… Nhưng cũng có tổ chức chưa biết ngày giỗ tổ thì họ chọn ngày tốt nhất trong năm (Xuân Thu Nhị Kỷ) hoặc lấy ngày giỗ của ngài cao đời trong tổ chức đó để làm ngày giỗ tổ. Ở Thừa Thiên Huế có nhiều họ phải lấy ngày giỗ tổ họ phái mình theo phương thức này. Từ tập quán đó, tôi xin đề nghị 2 ý kiến chon ngày giỗ tổ họ Lê Việt Nam:


- Một là lấy ngày Thanh minh là ngày tốt, đẹp trong năm để làm ngày giỗ tổ. Ngày Thanh minh thường rơi vào những ngày cuối tháng 2 đầu tháng 3 âm lịch. Ngày mà nhà đại văn hào Nguyễn Du đã ca ngợi:


Thanh minh trong tiết tháng ba
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh


- Hai là lấy ngày mất của vua Lê Đại Hành, mùng 8 tháng 3 âm lịch là ngày giỗ tổ họ Lê Việt Nam (không phải tôn vinh vua Lê Đại Hành là thuỷ tổ). Vua Lê Đại Hành sinh ngày 15 tháng 7 năm Tân Sửu (941), mất ngày 8 tháng 3 năm Ất Tỵ (1005), quê Xuân Lập, tỉnh Thanh Hoá. Ngài có công lớn giúp vua Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn 12 xứ quân, lãnh đạo nhân dân đánh đuổi quân Tống xâm lược, xây dựng đất nước vững mạnh và ngài là người mở đầu sự nghiệp vương triều vinh quang của dòng họ Lê Việt Nam.


2- Nghi thức lễ giỗ tổ họ Lê Việt Nam:


Tuỳ theo tình hình mỗi nơi, mỗi lúc, lễ giỗ tổ cần kết hợp nghi thức mới và cũ. Đại thể nội dung buổi lễ như sau:


- Phần đầu làm theo nghi thức mới: tuyên bố lý do, giới thiệu thành phần đến dự, đọc diễn văn lễ giỗ tổ…
- Phần thứ hai theo nghi thức cổ truyền: lễ bái, chúc văn, dâng hương…
- Cuối cùng tổ chức toạ đàm tình hình  của dòng họ, liên hoan v.v…


Hiện nay đa số con cháu trong dòng họ đã bước đầu nhận thức được Việt Nam chỉ có một họ Lê. Trong sinh hoạt dòng họ hoặc gặp nhau đâu đó đều coi nhau như anh em, tình cảm thân thiết, măn nồng. Đặc biệt gần đây chúng ta đã có Hội đồng họ Lê Việt Nam hoạt động trên phạm vi cả nước. Từ đó chúng tôi mong mọi hoạt động của dòng họ phải trên tinh thần: cội nguồn, hiếu nghĩa, đoàn kết, phát triển./.


 Lê Quang Minh
 Phó Chủ tịch Hội đồng họ Lê tỉnh Thừa Thiên - Huế
 Đ/c: 382 Chi Lăng- tp Huế, DT : 054.528543

RÁNG NHỚ LẠI NHỮNG GÌ SẮP QUÊN


RÁNG NHỚ LẠI NHỮNG GÌ SẮP QUÊN

Tác giả: Sagant Phan 


1. RÁNG NHỚ LẠI NHỮNG GÌ SẮP QUÊN

Những gì ở gần ta hàng ngày, ta thấy quen và không cần nhớ. Nhưng khi xa rồi thì ráng nhớ cũng như không. Hàng ngày đi vào trường học, uể oải gần chết, nhất là sau những ngày nghỉ lễ dài sướng ghê đi ngang qua sân trường thân yêu. Có ai nhớ lại trên sân trường của mình có mấy cây Phượng? Dãy lớp mình học có bao nhiêu cửa sổ tổng cộng lại? Rồi nói đến những con đường quen thuộc của nhà mình ở, quẹo ra ngoài đường thì có mấy cây cột đèn đường? Nguyên Quận mình ở có đường nào ngắn nhất? dài nhất?