8/22/11

Tọa đàm giữa ông Nguyễn Trần Bạt và các cán bộ nghiên cứu (Phần cuối)

Tôi cho rằng chủ nghĩa tư bản không lãnh đạo gì, không đóng vai trò gì trên thực tế mà đấy là bản năng thương mại của toàn nhân loại được huy động trong quá trình toàn cầu hóa, và đừng nhầm lẫn nó là toàn cầu hóa tư bản chủ nghĩa. Đấy là quan điểm của tôi. Và các dân tộc phải đủ tự do để con người của nó trở nên thông minh để nhặt nhạnh các cơ hội và né tránh các rủi ro. Khi tôi đến trường Harvard, tôi có 40 phút nói chuyện tại một lớp luật, ở trường đó có một luật lệ rất lạ là đã vào lớp rồi thì không thể ra ngoài. Tôi có nói đến câu chuyện là làm thế nào để thế giới chống lại được sự rủi ro do sự luôn luôn mới: người mới, hàng mới, cách thức mới của nền kinh tế thế giới xâm nhập vào các vùng khác nhau, nhất là các vùng chậm phát triển. Và đấy chính là bản chất của các gọi là nền kinh tế trí thức. Nền kinh tế trí thức là nền kinh tế mà trí thức trở thành lực lượng giúp xã hội phân loại giữa cơ hội và rủi ro. Nếu chúng ta cứ tiếp tục đào sâu cái rãnh mà chúng ta vẫn quen nghĩ thì nó giống như việc chúng ta đi giữa một cái hào kín, chúng ta không có cách gì để có thể nhìn ra hai bên được để mà hỗ trợ xã hội trong việc phân loại và tránh né rủi ro. Cho nên, con người chỉ có thể phát triển bằng tự do, những nước càng chậm phát triển bao nhiêu thì càng cần tự do bấy nhiêu, bởi vì anh phải bù lại cái phần thiếu hụt năng lực vốn có mà lịch sử đã tạo ra cho mỗi một công dân trong các quốc gia chậm phát triển. Đấy chính là phi chính trị hóa, phi chính trị hóa chứ không vô chính trị hóa. Tôi có thể yêu đảng cộng sản, có thể không, chẳng sao cả. Tôi luôn luôn nghĩ rằng sự đa dạng về các đặc trưng chính trị là một thực tế của đời sống chính trị toàn cầu. Nếu gò ép nhân dân để giữ cho được cái bản sắc nào đấy thì có nghĩa là tự mình phá hoại mình. Năm 1985, tôi cùng nhà tôi đi dự cuộc họp báo về việc đổi tiền, người ta nói rằng đáng ra lúc đầu định đổi 1-1 nhưng in không kịp cho nên đổi 1-10. Nghe xong tôi toát mồ hôi, tôi bảo, tại sao đối với tài sản của con người mà người ta vô trách nhiệm đến thế. Năm 1986 chúng ta đổi mới, người Việt Nam bỗng dưng nở ra, có phải đấy chính là một bằng chứng rằng, tự do đem lại cho con người sự bùng nổ sức sống? Ở giai đoạn đầu những năm 80, có lúc tôi đã trông thấy một vài bà phu nhân ra ngoài chợ giúi mấy tút thuốc tiêu chuẩn cho mấy con phe ở phố Phủ Doãn hay ở đâu đó. Các anh các chị khi nhớ lại những hình ảnh như vậy thì thấy rằng thật là tội nghiệp cho chúng ta khi chúng ta không tự do.
Chúng ta không hề vô chính trị khi có tự do về chính trị. Lịch sử yêu nước là lịch sử có thật, chúng ta không tin vào lịch sử yêu nước cho nên chúng ta buộc phải có những biện pháp phụ trợ để duy trì nó, xem nó là một thuộc tính để có thể luôn luôn yên tâm về sự tồn tại của chủ nghĩa yêu nước trong người Việt. Nhưng tôi không nghĩ thế, chủ nghĩa yêu nước của người Việt là một thuộc tính tự nhiên của người Việt, làm mất nó đi khó hơn nhiều so với việc giữ nó. Tôi thấy chúng ta có những cố gắng trái tự nhiên một cách kỳ lạ. Tôi có một người bạn, chị ấy đã mất rồi, chồng chị ấy là sếp của tôi, chị ấy là em gái anh Phạm Sỹ Liêm, phó chủ tịch thành phố Hà Nội. Chị ấy kể chuyện khi sang Moscow có ông đại sứ người Nghệ An quen biết nhìn thấy chị ấy trong ga tàu điện ngầm và cứ gọi ầm lên: “ Này Hào ơi! Dừng lại anh bảo” làm chị ấy ngượng. Tôi hỏi các anh chúng ta duy trì cái bản sắc ấy để làm gì? Nói to giữa chợ là một bản sắc vì thực ra bản sắc chính là thói quen. Chúng ta phải thay đổi thói quen phù hợp để tiếp cận cái mới. Vì bản chất của toàn cầu hóa là chở đến các ngõ ngách khác nhau của đời sống những vật phẩm mà thiên hạ có. Tôi là người đưa hãng Coca cola vào Việt Nam . Hôm làm lễ ra mắt, trước cửa nhà hát lớn họ bơm một chai Coca cola bằng nilon đen ngòm cao đến 4-5 thước đặt ở đấy. Tổng bí thư Đỗ Mười đi qua đấy trông thấy đã gọi điện phê bình. Sau đấy giám đốc Coca cola Việt Nam gọi điện hỏi tôi: ông ấy mắng thế đúng hay sai? Tôi bảo: mắng là đúng rồi. Cái nhà hát lớn của người ta trang nghiêm đến như vậy mà các anh ở đâu đến bơm một chai to tướng đặt ở đấy. Bản thân các anh cũng không có cái lịch sự thật sự của người phương Tây. Người phương Tây đứng trước nhà hát lớn thì một mẩu thuốc cũng không dám vứt ra. Người phương Tây có giáo dục và văn minh thì không làm những việc kiểu như thế trong nhà hát lớn. Vậy mà bây giờ chúng ta làm tất. Tôi lấy ví dụ như việc biến cái tầng hầm nhà hát lớn trở thành quán ăn chẳng hạn. Nhà hát lớn là nơi người Việt thể hiện trình độ văn minh của mình thì chúng ta lại biến nó thành quán ăn. Vậy tôi hỏi các anh là chúng ta giữ gìn cái bản sắc gì? Cái gì đáng nhớ trong cuộc đời này thì người ta không bao giờ quên được. Có lẽ tôi không bao giờ quên được những năm tháng chiến tranh. Làm sao mà tôi có thể quên được. Cái điều mà tôi nói nhiều nhất, nói một cách say sưa nhất trong bữa cơm với thị trưởng thành phố Sanfrancisco ở Hoa Kỳ là tôi nói về đường Hồ Chí Minh mà tôi tham gia xây dựng. Ông thị trưởng bảo: “ tôi rất muốn ông nói lại câu chuyện này ở câu lạc bộ Commonwelth, một câu lạc bộ cổ xưa nhất trong lịch sử Hoa Kỳ”. Tôi đồng ý. Khi tôi đến nói câu chuyện ở câu lạc bộ Commonwelth, ông chủ tịch ở câu lạc bộ ấy bảo: “ chỗ mà ông đang đứng là chỗ đứng của các danh nhân, của các nhà chính trị quan trọng nhất thế giới, của các thượng nghị sĩ quan trọng nhất của nền chính trị Hoa Kỳ, cho nên ông phải ý thức được cái vinh dự ấy, ông phải nói với chúng tôi điều A, B, C …”. Tôi cười và trả lời rằng: “ thưa ông chủ tịch, tôi là người nếu xét về phương diện kiến thức lịch sử thì bằng một công dân được đào tạo trung bình ở Hoa Kỳ, vì thế tôi biết cái vinh dự mà tôi được hưởng. Và tôi cũng biết thêm được rằng người Mỹ các ông khi ra câu hỏi thì đã có sẵn câu trả lời, hôm nay tôi sẽ nói những vấn đề mà người Mỹ chưa có kinh nghiệm để đặt câu hỏi”. Khi nói về người Mỹ mất tích, tôi bảo với họ là: “ các ông biết rằng nền văn hóa của chúng tôi là nền văn hóa của người chết, tất cả các dấu hiệu văn hóa quan trọng nhất là liên quan đến người chết và các nhà chính trị của chúng tôi có thể không sợ các ông nhưng họ không thể không sợ cha ông họ được. Họ không dám vi phạm các giới hạn văn hóa để dùng xác chết của lính Mỹ mặc cả chính trị với các ông. Chúng tôi là một dân tộc không chuyên nghiệp, chúng tôi đánh các ông cũng không chuyên nghiệp, cho nên trong chiến tranh chúng tôi không thống kê. Ngay cả người của chúng tôi chúng tôi cũng không thống kê được. Vì thế khi phải đối mặt với các vấn đề có tính chuyên nghiệp ở thời kỳ hậu chiến, chính phủ chúng tôi lúng túng. Và nếu các ông biết rõ rằng họ lúng túng chứ họ không thiếu thiện chí thì các ông tiếp cận vấn đề người Mỹ mất tích ở Việt Nam thuận lợi hơn nhiều”. Tôi phải nói thật với các anh chị là nếu không tự do thì tôi không thể nói được như thế. Lúc bấy giờ lương của tôi là 650 đồng, tạm gọi là lương cấp vụ, nếu nói năng không cẩn thận thì có thể mất lương. Đôi lúc chúng ta cũng phải liều, và nếu như chúng ta cứ nhớ đến bản sắc thì không nói được. Từ lâu lắm rồi tôi là người xem việc giữ gìn bản sắc là một khẩu hiệu không lành mạnh, và có những động cơ không lành mạnh. Người ta chỉ nói thế thôi chứ cũng không ai chỉ ra nội dung cơ bản của bản sắc là gì và mỗi người chỉ ra bẳn sắc một kiểu. Như vậy vô tình việc giữ gìn bản sắc trở thành việc giữ gìn cái đòi hỏi của một người cụ thể, mà như vậy thì nó không còn là bản sắc nữa, bởi vì bản sắc là cái nằm trong máu mỗi người. Người ta nói hòa nhập chứ không hòa tan, nhưng tan thế nào được. Không có cách gì để hòa tan người Việt được, muốn cũng không được. Cứ xem các bài báo của Việt kiều là các anh có thể nhận ra và phân loại được ngay. Văn phong của một anh Việt kiều ở Đức khác hẳn với văn phong của anh Việt Kiều ở quận Cam, văn phong của anh Việt Kiều ở quận Cam khác hẳn với văn phong của anh Việt Kiều ở Washington DC … Họ vẫn nói xấu những người cộng sản nhưng nếu được chụp chung ảnh với những người lãnh đạo cao cấp thì họ vẫn rất sung sướng. Đấy là sự thật. Bản sắc có cả mặt ấy, vì thế, nếu con người cứ xăm xăm để giữ cái bản sắc của mình thì con người sẽ sao nhãng việc phân tích các yếu tố mới và kết nạp nó vào cộng đồng các yếu tố trong miền tinh thần của mình. Con người cần phải cởi mở. Cải cách văn hóa theo định nghiã của tôi là tạo ra một nền văn hóa mở, có năng lực tiếp nhận mọi dấu hiệu văn hóa tích cực.
Ý thứ tư của anh là cải cách chính trị theo tiêu chuẩn phổ biến là gì. Đó là dân chủ hóa xã hội. Trong các quyển sách này cũng như trong nhiều bài viết, nhất là các bài viết về Hồ Chủ Tịch, tôi có nói rằng “dân chủ hóa xã hội Việt Nam là món nợ tinh thần của những người cộng sản đối với dân tộc”. Chúng ta đưa ra khái niệm gọi là thời kỳ quá độ, thậm chí bây giờ người cộng sản Trung Quốc đã nói thẳng ra rằng thời kỳ quá độ ấy là hàng trăm năm. Thời kỳ quá độ là một khái niệm được mô tả bằng một câu nói dân gian ở Việt Nam là: “ngày mai ăn phở không mất tiền”. Nhưng bao giờ mới đến cái ngày mai ấy? Tại sao chúng ta không biến một quá trình như vậy thành quá trình xây dựng và tổ chức nền dân chủ? Chúng ta cùng nhau xác định rằng dân chủ hóa tức là trả lại cho con người cuộc sống tự nhiên của nó, và chính trị là lãnh đạo con người chứ không phải là lãnh đạo một con người, cho nên, phải thừa nhận tính đa dạng của đời sống con người, và phải lãnh đạo để nó trở nên người hơn chứ không phải để nó trở thành loại người mà mình muốn. Đấy là quan điểm của tôi. Tôi không nghĩ rằng dân chủ hóa thì nhân dân sẽ chống Đảng, ngược lại, có khi nhân dân còn công kênh Đảng lên. Nếu người ta biết chắc rằng các anh đang tổ chức và lãnh đạo một tương lai mà ở đó nhân dân tự do thì nhân dân rất sợ các anh bỏ đi. Các anh không tưởng tượng được rằng nếu Đảng làm được như thế thì xã hội rất sợ Đảng bỏ đi. Giữa việc nếu ta đi thì họ níu và việc bắt họ phải chịu đựng ta thì việc nào hơn? Tôi thấy các anh không nên ghép những chữ mà bản chất của nó là những chặng khác nhau hay là những mức độ khác nhau của một khái niệm với nhau, như đa nguyên – đa đảng mà tôi nói lúc trước. Đa nguyên là bản chất của cuộc sống còn đa đảng là đời sống chính trị. Nếu chúng ta chưa có điều kiện để đa đảng thì chúng ta không vì thế mà tiêu diệt đa nguyên. Các anh chị ở Học viện là những tinh hoa của đời sống lý luận, các anh chị còn phân biệt được chứ còn xuống đến ban tuyên huấn của các tỉnh ủy thì rất khó. Tôi cho rằng, bản chất của quá trình cải cách chính trị là dân chủ hóa, và chúng ta phải hiểu rằng dân chủ hóa là một việc phải làm. Vì con người, vì sự phát triển của đất nước chúng ta phải làm, chỉ có điều là chúng ta làm cho khéo để giữ được Đảng. Trong những quyển sách này còn thiếu một điều rất quan trọng mà tôi không nói được, đó là những rủi ro mà Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ gặp phải trong quá trình cải cách chính trị. Chúng tôi không hề có sự bức xúc gì với Đẳng, với nhà nước, với chính phủ, chúng tôi là những người đủ khôn ngoan để trong bất kỳ trạng thái chính trị nào của đất nước chúng tôi cũng tồn tại được, nhưng những người như chúng tôi rất ít. Cái chính là phải làm thế nào để những điều kiện có thể tạo ra sự phát triển như vậy trở nên tương đối phổ biến đối với nhân dân chúng ta.
Vấn đề thứ năm là vấn đề phi chính trị hóa giáo dục. Tôi đã đọc rất nhiều bài viết xung quanh vấn đề này. Rất nhiều người nói do thầy thế này, do sách giáo khoa thế kia. Gần đây anh Trần Hữu Dũng, giáo sư trường đại học Wright State, chủ trang web “ Diễn đàn”, về đây trả lời phỏng vấn của báo chí đã nhận xét rằng: giáo dục Việt Nam loay hoay tìm cách phát minh lại cái bánh xe. Kể cả những nhà giáo dục rất có uy tín cũng vẫn quanh quẩn xung quanh những chi tiết, những chương trình này khác mà quên mất rằng cải cách giáo dục là cuộc cải cách đau đớn nhất mà Đảng ta phải chịu đựng nếu định làm, đó là phi chính trị hóa nhà trường. Nếu không phi chính trị hóa nhà trường thì không thể có được nền giáo dục tiên tiến. Các anh chị biết rằng xét về mặt phân tâm học thì năng lực tiếp nhận của trẻ con vào những lứa tuổi khác nhau thích hợp với những loại kiến thức khác nhau. Tại sao trẻ con Châu Âu nói chuyện triết học, nói chuyện Kant, Hegel … một cách rất nhẹ nhàng? Bởi vì lúc các em chưa kịp có định kiến thì các em tiếp cận một cách vô thức. Và về mặt phương pháp luận nhận thức mà nói thì kẻ nào vào sớm nhất trong miền tiềm thức cuả một con người thì kẻ đó trở thành chủ của bộ não và cái còn lại là sự lựa chọn của chính kẻ đó. Chúng ta để cho trẻ con làm quen sớm với một số khái niệm rất hạn chế, và do đó, trẻ con của chúng ta dù có chương trình tốt đến mấy thì khả năng tiếp cận của chúng cũng rất thấp. Nếu làm toán, học sinh chúng ta làm rất tốt, nhưng suy tưởng toán học thì không tốt. Cho nên, về cơ bản chúng ta không có nhà toán học, nhiều lắm là chỉ có nhà dạy toán. Vì thế phải nói thật với các anh chị là nếu không làm cho các trường đại học, các cơ sở giáo dục tự do hơn đối với chính trị, đối với các tiêu chuẩn bắt buộc phải có về nhận thức mà hiện nay chúng ta đang phổ biến trong xã hội thì phải nói rằng mọi ý đồ, mọi khát vọng về cải cách giáo dục đều là vô ích, và chúng ta có đào tạo được 20.000 tiến sĩ thì cũng không có giáo trị gì. Chúng ta sẽ có những kẻ nói một cách chuẩn hơn về thuật ngữ, chúng ta có thể có một số lực lượng có khả năng diễn đạt một cách trôi chảy cái cũ nhưng để tìm ra cái mới thì rất khó, mà nhiệm vụ của chúng ta là tìm ra cái mới chứ không phải diễn đạt trôi chảy cái cũ. Hiện tượng diễn đạt trôi chảy những cái cũ đã trở thành phong cách của giới tri thức Việt Nam từ hàng trăm, hàng nghìn năm nay. Khi Liên hiệp các Hội khoa học kỹ thuật VN tổ chức tiếp giáo sư Francois Jullien, tôi thấy cơ sở vật chất nghèo nàn, lễ tân không có, tôi rất buồn. Tôi đã mời ông ấy ăn cơm ở một khách sạn rất sang. Tôi nói với ông ấy là: “ Tôi phải nói thật với giáo sư là tôi đang chữa ngượng cho người Việt, bởi vì đáng ra với một người như giáo sư thì Thủ tướng hoặc các nhà lãnh đạo chúng tôi phải tiếp. Nhưng bởi vì các đồng nghiệp của Giáo sư không ý thức được tầm quan trọng của chính người bạn của mình, cho nên làm cho Thủ tướng của chúng tôi không biết ngài. Vì thế tôi đành phải làm việc này để chữa ngượng. Cũng phải nói với các anh chị là càng ngày tôi càng hiểu ra rằng với sự loay hoay của người Việt xung quanh cải cách giáo dục như thế này thì rất khó mà đáp ứng được. Chúng ta có cải cách gì đi nữa, cải cách chính chính trị rất cấp tiến đi chăng nữa, cải cách kinh tế một cách hùng hổ thế nào đi chăng nữa thì với nền giáo dục và đào tạo hiện nay, người Việt không có năng lực tiếp nhận và tiếp ứng với mọi sự phát triển. Tôi là người sử dụng lao động, ở đây chúng tôi không có những người lao động đơn giản, tất cả những người lái xe của chúng tôi đều là cử nhân kinh tế hoặc luật học. Ở đây chúng tôi không cho phép tồn tại những người không tốt nghiệp đại học. có một anh lái xe hỏi tôi rằng: em là lái xe, anh bắt em đi học để làm gì? Tôi hỏi: cậu có vợ, có con không? Cậu có sợ con cậu xấu hổ vì bố nó là một kẻ vô học không? Học và kiếm ăn bằng sự học của mình là hai việc khác nhau. Tất cả lái xe, bảo vệ của chúng tôi đều tốt nghiệp cử nhân luật, kinh tế cả. Tôi động viên họ học với quan điểm là con người càng đến gần học vấn bao nhiều càng dễ phát triển bấy nhiêu. Hôm nọ anh em Vietnamnet có đến đây phỏng vấn tôi về sự khủng hoảng của nền giáo dục VN, tôi trả lời rằng nền giáo dục VN không khủng hoảng. Đây là cuộc khủng hoảng của những người có trách nhiệm tổ chức ra nền giáo dục chứ không phải khủng hoảng nền giáo dục. Xã hội vẫn lặng lẽ bổ sung những sự thiếu hụt mà những người có trách nhiệm tổ chức ra nền giáo dục không làm được. Người Việt không để cho nền giáo dục của mình khủng hoảng.
Ông Phạm Huy Đức: Tôi thấy các cuốn sách của anh có hai cảm hứng chủ đạo, cảm hứng thứ nhất là cảm hứng tự do, cảm hứng thứ hai là cảm hứng dân chủ, những cái đó thì giới trí thức VN đang thiếu, anh đã thổi hồn vào trong đời sống chung. Tôi thấy cách diễn đạt của anh cũng lạ, khiến cho người đọc tò mò, đọc rồi có thể có rất nhiều chia sẻ. Cách hiểu có thể khác nhau nhưng bản chất thì không khác nhau. Ví dụ, anh đồng nhất bản sắc của dân tộc với cái yếu kém của dân tộc, cái đấy nhiều người đã nói. Nhưng tôi cho rằng không nên đồng nhất bản sắc chỉ là những cái xấu. Nếu như anh đã tôn trọng sự đa dạng tinh thần thì anh cũng phải thừa nhận có các sắc thái văn hóa có nhấn mạnh đến việc con người phải biết tự bảo vệ mình và giữ được cái trạng thái của mình trong xu thế hội nhập. Tất nhiên cái bản sắc không loại trừ cái hội nhập, cái đổi mới và anh phải đổi mới thì anh mới giữ được bản sắc. Những trò chơi ngôn ngữ đôi khi làm cho người ta hiểu lầm nhau, nhưng tôi tin rằng về bản chất thì anh cũng không phê phán quan điểm như vậy.
Ông Nguyễn Trần Bạt: Tôi không đồng nhất bản sắc với những cái xấu, bởi vì tôi không xem là có khái niệm bản sắc, và tôi cũng không hề phê phán quan điểm đa dạng văn hóa như anh nói. Tôi cho rằng con người thì phải đa dạng, đa dạng về quan điểm, đa dạng về tư tưởng, đa dạng về phong cách. Ngôn ngữ cũng thể hiện phong cách. Năm 1948 khi anh Nguyễn Đình Thi bắt đầu viết tập Những bài ca Hắc Hải thì anh Tố Hữu đưa ra phê phán là không có tính nhân dân. Nói thật là khi nghiên cứu những chuyện như vậy thì tôi ngạc nhiên vì một nhà lãnh đạo cao cấp như thế đáng ra phải đứng trên những sự khác biệt như vậy để khuyến khích. Con trai tôi học ở nước ngoài được 10 năm, khi về nước nó vớ được tập thơ của anh Trần Dần, nó đọc xong thì hỏi tôi: “ những bài này ông ấy viết từ bao giờ hả bố?” Tôi trả lời: “ từ năm 1955 con ạ”. Nó bảo: “ một đất nước có một người đã viết từ năm 1955 những tác phẩm thế này mà không nổi tiếng thế giới thì rất đáng tủi thân. Cái này Châu Âu mới bắt đầu xem là đại trà”. Tôi không hề dị ứng với sự khác biệt. Có lần tôi đến Hannover để dự một hội thảo quốc tế, sau đó chúng tôi đi xe buýt để lên Berlin . Tôi ngồi trên xe buýt và ngủ, đến lúc tôi nghe thấy những tiếng ô tô kêu to hơn thì tôi hỏi cậu thư ký bên cạnh: “ đến Đông Đức rồi phải không?” Cậu ấy bảo: “ Đúng rồi anh ạ”. Bản sắc là không thể trộn được. Đến bây giờ người ta vẫn không trộn được Đông Đức và Tây Đức mặc dù đã tiêu tốn hàng nghìn tỷ Deutsche Mark. Có những người nói rằng chủ nghĩa cộng sản không để lại đóng góp văn hóa nào, nhưng họ nhầm to. Tôi đang định viết một quyển sách về nền văn hóa vô sản và nguyên một chữ “ đồng chí” thôi đã là một đóng góp của nền văn hóa vô sản mà chúng ta phải phân tích một cách rất cẩn thận. Tôi là người thừa nhận sự khác biệt và phải nói rằng đau khổ lớn nhất của con người là sự giống nhau.
Ông Bùi Đình Phong: Tôi đồng ý với những vấn đề mà anh trình bày. Tôi chỉ muốn hỏi theo dự đoán của anh thì đến bao giờ VN mới có thể có những điều như anh nói?
Ông Nguyễn Trần Bạt: Nếu khóa XI này Đảng thừa nhận và bắt đầu tổ chức quá trình cải cách chính trị theo hướng dân chủ hóa xã hội thì sau 10-15 năm nữa, VN sẽ phát triển một cách không ai ngăn chặn được. Và phải nói rằng, chúng ta ở cạnh nước CHND Trung Hoa, cách duy nhất để chúng ta đối phó với sự lấn át của một nước lớn là chúng ta phải trở thành một quốc gia phát triển. Mà không phải chỉ có chúng ta mới có tâm trạng ấy. Nếu các anh chị mà nói chuyện với một người Newzeland thì sẽ thấy ngay rằng anh ta rất ghét nước Úc. Tất cả những kẻ bé đều ghét kẻ lớn ở bên cạnh mình. Tâm lý đó là hoàn toàn phổ biến. Nước bé ở cạnh nước lớn, nước nghèo ở cạnh nước giàu bao giờ cũng có tâm lý ấy. Tôi rất sung sướng thấy rằng người Trung Quốc tỏ ra rất khiêm tốn đối với người Nhật Bản. Ông Fukuda vừa mất chức, người phát ngôn Bộ ngoại giao Trung Hoa đã phải lập tức lên ti vi ngay để nói rằng: chúng tôi hy vọng rằng sự từ chức của thủ tướng Fukuda không ảnh hưởng gì đến quan hệ Trung – Nhật. Tôi kể cho các anh chị nghe câu chuyện rất thú vị, năm 1987 tôi có gặp ông chủ tịch tập đoàn Kolon của Hàn Quốc, lúc ấy ông ấy vừa mới trúng cử nghị sĩ. Khi tôi ăn cơm với ông ấy ở khách sạn Caraven Sài Gòn, ông ấy bảo: với tư cách là chủ tịch Kolon thì tháng nào tôi cũng đến đây một lần, nhưng bây giờ tôi muốn nhờ ông bố trí cho tôi một lời mời của bất kỳ một nghị sĩ nào của VN, mời tôi đến thăm với tư cách là một nghị sĩ. Sang năm tôi là chủ tịch quốc hội Hàn Quốc, tôi đưa ra một lời hứa với ông để ông thuyết phục các nghị sĩ VN là ngay lập tức tôi sẽ bình thường hóa quan hệ với VN. Tôi mất hai tháng lặn lội gặp tất cả các nghị sĩ VN, từ giáo sư này đến giáo sư khác, tất cả đều từ chối. Tôi cực kỳ đau khổ. Hai năm sau đó Hàn Quốc bình thường hóa với Trung Quốc, và hai năm sau nữa Hàn Quốc mới bình thường hóa với VN. Đáng ra chúng ta có thể làm việc ấy trước TQ hai năm. Tôi kể câu chuyện đó để nói với các anh rằng, đôi lúc sự thiếu tự do kìm hãm các cơ hội quan trọng của đất nước.
Ông Phạm Huy Đức: Hiện nay mình đang đào tạo ra những con người của cơ chế chứ chưa phải là các chính khách.
Ông Nguyễn Trần Bạt: Để minh họa thêm về điều mà anh nói, tôi xin kể một câu chuyện nữa. Năm 1989 tôi đến Úc, tôi rất nhiều bạn bè ở Úc, họ bố trí cho tôi tiếp xúc với một số nhà chính trị quan trọng ở Úc, trong đó có một người là thượng nghị sĩ Kim Beazley, chủ tịch Công Đảng Úc, và lúc bấy giờ Công Đảng đang cầm quyền. Đúng giờ hẹn tôi đến phòng ông ấy. Ông ấy mời tôi ngồi và bảo: “ Với tư cách là một thương nhân thì ông gặp tôi có chuyện gì?” Tôi bảo: “ Tôi được giới thiệu rằng thượng nghị sĩ là một nhà chính trị thông minh nhất nước Úc. Tôi cũng nói chuyện với nhiều nhà chính trị của Úc, nhưng tôi dành những điều tôi sắp nói để nói với ông. Nếu ông thích nghe thì tôi nói, còn nếu không thì tôi xin lỗi, tôi về”. Ông ấy bảo: “ Ông có 15 phút”. Tôi nói rằng: “ Thế giới trong thời đại toàn cầu đang co cụm lại từng khu vực, nước Úc với tư cách là một quốc gia Châu Âu về mặt chủng tộc, là một quốc gia Châu Á về mặt địa lý, vậy nước Úc ở đâu trong xu thế khu vực hóa ấy?” Ông ấy sáng mắt lên và bảo: “ Xin lỗi ông, chuyện này quan trọng lắm, tôi không nghe một mình được”. Và thê là ông ấy kéo tôi sang một phòng khách lớn và mời 1/3 nội các đến. Tôi đã nói chuyện với 1/3 nội các, trong đó có Bộ trưởng quốc phòng, Bộ trưởng tài chính, Bộ trưởng giáo dục … đủ hết và cả mười mấy thượng nghị sĩ nữa. Cuộc nói chuyện ấy kéo dài hơn 4 tiếng đồng hồ. Và sau đó tôi đã kéo được ngân hàng ANZ vào đây, và tôi cũng là người tuyển chị Vi Lê ( sau này trở thành vợ của đại sứ Mỹ Pete Peterson) vào VN theo ủy quyền của chủ tịch ngân hàng ANZ. Phải nói thật với các anh rằng, tự do đem lại cho con người những phút thăng hoa khủng khiếp và nó tạo ra những sáng tạo mà ở những trạng thái bình thường chúng ta không làm được. Cho nên, với tư cách là mọt người viết, một người suy ngẫm, tôi không dám nói là một người viết hàn lâm chuyên nghiệp hay một người suy ngẫm chuyên nghiệp, tôi có một câu là: “ tài năng là một thứ mà người sở hữu nó là người cuối cùng biết về nó”. Có những lúc vì yêu nước, vì cái nọ cái kia, bỗng nhiên mình liều mạng. Bộ trưởng quốc phòng Úc đã hỏi tôi thế này: “ bây giờ chúng tôi phải hội nhập vào Châu Á, vào Đông Nam Á, theo ông khu vực nào của Đông Nam Á thuận lợi cho chúng tôi?” Tôi trả lời: “ Đông Dương. Đông Dương là khâu yếu nhất trong quá trình hội nhập. Ví dụ tôi thấy tướng Louis Loridon là tư lệnh quân Untac ở Phnom Penh , tại sao tư lệnh Phnom Penh không phải là người Úc?” Hai tháng sau họ đã vận động thay tướng Louis Loridon bằng tướng John Sanderson. Đông Dương là điểm mà người Úc phải tập kết đến đấy. Tôi với một thượng nghị sĩ Úc đồng thời là Chủ tịch viện hàn lâm Úc là ông Narole Rale đã tranh luận với nhau ba buổi. Ông ấy nói: “nếu người Việt hy vọng người Úc trở thành cầu nối của mình với Hoa Kỳ là người Việt ảo tưởng và sai”. Tôi bảo rằng: “nếu ngài nghĩ chúng tôi sai thì ngài sai. Nước Úc là một quốc gia về mặt tâm lý được hình thành giống với quy luật của người Việt. Chúng ta đều đi tìm tự do. Các ngài đi tìm tự do của mình bằng những nhân tố có tính chất bị lưu đày cách đây 200 năm. Còn chúng tôi là kẻ đi tìm đất nước của mình trong xu thế săn đuổi chạy xuống phương Nam . Về mặt tâm lý thì hai dân tộc giống nhau. Tôi nghĩ rằng các ngài chơi với chúng tôi dễ hơn chơi với bất kỳ nước nào ở Đông Nam Á, và cái giá phải trả cho việc các ngài chơi với VN rẻ hơn nhiều so với việc các ngài chơi với người Indonesia , người Papua Ne Guinea”. Đến khi Công đảng sụp đổ do tham nhũng thì đảng bảo thủ lên thay. Đảng bảo thủ cử một quan chức cỡ thứ trưởng sang VN gặp tôi chỉ để nói một câu: “Chính phủ công đảng cam kết với VN rất nhiều thứ, chúng tôi không đủ tiền để thỏa mãn tất cả những yêu cầu này nhưng chúng tôi ý thức rất rõ rằng lời khuyên của ông đối với những người tiền bối của chúng tôi là phải duy trì mối quan hệ tốt với VN. Vậy theo ông nên cắt đi cái gì và giữ lại cái gì để vẫn giữ được quan hệ tốt với VN?”. Tôi trả lời: “các ông cắt đi cái gì thì là tùy các ông, nhưng theo tôi, các ông phải giữ được hai thứ, đó là trợ giúp giáo dục và dự án cầu Mỹ Thuận. Bởi vì hơn 100 năm người Pháp không làm nổi, 50 năm người Mỹ không làm nổi, nếu các ông làm được thì đấy là biểu tượng thiện chí của các ông ở những vùng đất nhạy cảm như chúng tôi. Khi người ta khánh thành cây cầu ấy, Đại sứ Úc hỏi tôi: “ Ban tổ chức có mời ông không?”. Tôi bảo không. Như vậy cái dự án ấy có được bằng một lời khuyên, đó là lời khuyên của tôi. Các anh thử nghĩ xem, với tư cách một công dân bình thường mà nếu tuân thủ những tiêu chí chính trị được áp đặt một cách lâu dài như vậy ở VN thì làm sao tôi có thể nói những điều có ích cho đất nước được? Khi các anh đã nói đến tự do chính trị mà không nói một cách đầy đủ thì sẽ làm người ta sợ. Hầu hết chúng ta đều sợ những khái niệm nhạy cảm, và sợ những khái niệm ấy chính là biểu hiện của sự nhát nhúa bộ máy trí tuệ của dân tộc chúng ta. Trong bản thảo “ Tự do” tôi có một chương phân tích về miền tinh thần của con người, có lẽ trong lịch sử nghiên cứu về tự do người ta chưa phân tích tự do theo kiểu như thế này. Đó là chương nói về “ Không gian tinh thần”. Ở đấy tôi chia miền tinh thần con người thành ba tầng: tầng thứ nhất là tầng thực dụng, tầng thứ hai là tầng trí tuệ, tầng thứ ba là tầng siêu tinh thần tức là tầng lý tưởng. Ở trong đó tôi định nghĩa tự do bên trong của một con người chính là sự dịch chuyển một cách thoải mái trên ba miền này. Ví dụ ngày xưa đàn ông là không rửa bát, đàn ông rửa bát là hàng xóm chê còn vợ thì thấy áy náy, hay không ai có thể tưởng tượng nổi một giáo sư lại đi đạp xích lô để kiếm thêm. Đấy là thiếu tự do. Tôi quan niệm rằng, ngay lập tức con người có thể tự do dịch chuyển sự chú ý của mình, năng lực của mình đến miền nào mà ở đấy người ta thấy các đòi hỏi được thỏa mãn. Tôi là nhà kinh doanh, nhưng tôi làm khoa học, tôi chứng minh rằng tôi tự do trong chính bản thân mình. Hàng ngày tôi cũng phải mặc cả, cũng phải duyệt chi tiêu, cũng phải căn vặn cấp dưới của mình tại sao lại lãng phí, tại sao lại chi những khoản không cần thiết. Những việc ấy không giống như việc nghe nhạc Beethoven hay Mozart, nó không lãng mạn gì cả nhưng tôi buộc phải làm. Tuy nhiên, ngay lập tức đến buổi ăn cơm trưa là tôi nói chuyện với anh em về Hayek. Đấy là tự do. Tự do cho phép mình hiện hình thành con người này, thành con người kia để phù hợp với đòi hỏi hàng ngày của đời sống. Nếu chưa có cái tự do thể chế mà tôi gọi là điều kiện tự do khách quan thì chúng ta phải bảo tồn cái tự do bên trong của mình.
Ông Phạm Ngọc Quang: Thưa anh Bạt và các anh chị em trong Học viện. Chúng ta đã nghe anh Bạt trình bày một số ý trong những ý tưởng của anh ấy liên quan đến một số vấn đề hết sức nhạy cảm với một tinh thần hết sức cởi mở. Tôi tin rằng đây chưa phải là tất cả và anh Bạt còn nhiều điểm có thể trình bày nữa. Chúng tôi hy vọng sẽ có những buổi khác để trao đổi thêm với các anh. Mong anh tích cực giúp đỡ chúng tôi. Xin thay mặt tất cả anh em trong học viện chúng tôi xin cảm ơn các anh đã bố trí buổi gặp gỡ này. 
Ông Nguyễn Trần Bạt: Thưa các anh chị. Tôi hết sức cảm động vì được tiếp xúc với những nhà nghiên cứu chuyên nghiệp của Đảng, phải nói rằng đối với tôi đó là một vinh dự tinh thần. Tôi rất sẵn sàng cộng tác với tất cả các anh. Chúng tôi được biết rằng việc các anh đến đây có sự phê chuẩn của giáo sư Lê Hữu Nghĩa, thay mặt anh em trong công ty, chúng tôi nhờ anh chuyển lời cảm ơn sự tín nhiệm và sự cởi mở của giáo sư Lê Hữu Nghĩa và Ban lãnh đạo Học viện. Tôi nghĩ rằng xã hội có nghĩa vụ phục vụ các anh trong những chuyện như thế này. Lý do rất đơn giản là các anh mà không phát triển thì trí khôn của hệ thống chính trị cũng không phát triển. Mà xã hội thì sống bằng trí khôn của hệ thống chính trị.
Ông Phạm Ngọc Quang: Cảm ơn anh đã gửi gắm sự tin tưởng của anh với chúng tôi. Chúng tôi sẽ có những nỗ lực để có thể đáp ứng được phần nào đó. Nhưng để đạt được điều đó thì phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa chúng tôi và những người làm thực tiễn mà anh làm một trong những người như vậy.

Nguồn: Sưu tầm

No comments:

Post a Comment